Trang

++ CHÙA A DI ĐÀ KÍNH CHÚC QUÍ VỊ MỘT NGÀY AN VUI. http://chuaadida.blogspot.com nay được đưa về trang nhà chuaadida.com. KÍNH MỜI QUÍ VỊ HOAN HỶ GHÉ THĂM TRANG NHÀ chuaadida.com và chia sẽ mọi người cùng biết. Cảm Ơn " ++
++ Thật hạnh phúc cho những ai biết cho mà không hề nhớ đến, biết nhận mà không hề quên đi. -- Đừng đau khổ với những gì mình không có, hãy biết vui với những gì mình đang có trong tay. -- Giá trị đích thực của sự cho đi không nằm ở món quà lớn hay nhỏ, mà nằm ở tầm lòng của người cho. -- Có 3 cách để tự làm giầu cho mình: mỉm cười, cho đi, và tha thứ. -- Tức giận là cơn lốc xóa đi mọi sự thông minh. -- Thành công lớn nhất là đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã. -- Phải ăn để sống chứ không phải sống để ăn. -- Một nụ cười có thể thay đổi một ngày. Một cái ôm có thể thay đổi một tuần. Một lời nói có thể thay đổi một cuộc sống. -- Đừng bao giờ cau mày hay nhăn mặt thậm chí khi bạn đang buồn. Chắc chắn sẽ có ai đó yêu bạn chỉ vì nụ cười của bạn thôi. Với thế giới, bạn chỉ là một cá nhân, nhưng với một ai đó, bạn là cả thế giới. -- Sự kiên nhẫn là sức mạnh vượt qua mọi khó khăn. -- Ðừng khóc vì mọi việc đã qua, hãy cười vì mọi việc đang chờ phía trước. -- Với lòng nhân ái đôi khi vực người từ hố thẳm, Với dạ hẹp hòi đôi lúc đẩy người tận vực sâu. -- Dù xa cách mấy trùng dương Ở đâu cũng có quê hương trong lòng. -- Tiền tài biết đủ thân không nhục, Danh lợi không tham đức mới cao. -- Tiền tài rồi cũng hết, Danh lợi rồi cũng tan, Duy chỉ có lòng người, Sống mãi với thời gian. -- Có không thương ghét chẳng bận lòng, Được mất hơn thua chẳng ngóng trông, Mở rộng tâm ra lòng thanh thảng, An nhiên tự tại dạ thong dong. -- Có thành công lớn nhỏ nào, không từ kiên nhẫn mà nên++

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Tỳ kheo có làm tròn chữ Hiếu không?


Thời gian trước, một số vị phật tử lớn tuổi, am hiểu cổ học, đưa ra ý kiến nói rằng, người xuất gia không hoặc khó làm đầy đủ câu hiếu để đối với song đường (bố mẹ). Vậy điều đó đúng không? Nếu đúng, thì hàng đệ tử xuất gia của đức Phật có đủ tư cách làm người hướng đạo cho cư sỹ tại gia cũng như mọi giới chăng? Nếu nhận thức trên của các phật tử là chưa thấu đáo, nguyên nhân do đâu?


Có lẽ không ý người cũng có suy nghĩ như thế, hoặc giả thắc mắc trong lòng, quý Thầy trả hiếu bậc sanh thành như thế nào? Việc giáo dục hiếu thuận với cha mẹ của Phật giáo được ghi lại rất nhiều trong kinh, luật Bắc truyền (đại thừa) cũng như Nam truyền (tiểu thừa) như:  kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán, Phật dạy: “lòng từ của cha, tình thương của mẹ, nếu Ta trụ thế trong một kiếp[1] cũng không nói hết được” (父有慈恩,母有悲恩 , 母 悲 恩 者 , 若 我 住 世 於 一 劫 中 說 不 能 盡). Nghĩa mẹ tình cha lớn lao như thế nên, “trong trọn một kiếp, mỗi ngày ba lần cắt thịt của mình phụng dưỡng mẹ cha, cũng không báo đáp được ân ấy một ngày ”(經於一劫,每日三時割自身肉以養父母,而未能報一日之恩). “Vì thế cho nên, các ông phải tinh cần tu tập, hiếu dưỡng cha mẹ, như người cúng dường Phật, phúc báo không khác, nên cứ như thế mà báo ân cha mẹ”(是故汝等勤加修習孝養父母,若人供佛福等無異,應當如是報父母恩).


Chỉ qua ba câu trong kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán quyển 3,[2] đoạn đức Phật dạy cho năm trăm vị trưởng giả tại thành Vương Xá về bốn ân (ân cha mẹ, ân chúng sanh, ân quốc gia và ân Tam bảo), chúng ta thấy ân đức cha mẹ thật khôn lường, dù lấy thân mình cúng dường trọn kiếp cũng khó đáp đền, và Phật dạy chúng ta phải như thế mà báo ân. Vậy, người xuất gia học Phật há lại không y lời ấy hành trì. Thế nhưng, thực phẩm, y phục .v.v. của hàng xuất gia đều là do sự cúng dàng của phật tử tại gia, nếu dùng chúng để phụng dưỡng cha mẹ có được không? Điều này trong luật Ngũ Phần quyển 20 có ghi: thời đức Phật có một vị A La Hán tên Tất Lăng Già Bà Sa (畢陵伽婆蹉), cha mẹ Ngài nghèo khó, Ngài muốn đem một phần y phục vật phẩm khất thực được để cha mẹ dùng, nhưng lại sợ không được phép, nên xin đức Phật chỉ dạy. Phật liền tập hợp chúng đệ tử lại và dạy rằng: “nếu có người vai phải gánh cha, vai trái gánh mẹ như thế trăm năm; dùng y phục thực phẩm tốt nhất cúng dàng, cũng không thể báo đáp hết ơn cha mẹ. Nên từ nay, cho phép hàng tỳ kheo hết lòng hiếu dưỡng mẹ cha; ai không cúng dàng thì phạm giới” (若人百年之中,右肩擔父,左肩擔母,於上大小便利;極世珍奇衣食供養,猶不能報須臾之恩。從今聽諸比丘盡心盡壽供養父母;若不供養得重)[3]. Và, việc dùng vật phẩm hiếu dưỡng song thân được dạy rất rõ ràng, trong luật của Nhất Thiết Hữu bộ quyển 4: “Người xuất đối với cha mẹ vẫn phải cung cấp tiện nghi sống, nhưng không biết làm thế nào cho hợp. Phật dạy: các vật mà bản thân dùng còn, có thể cúng cha mẹ. Nếu không còn dư, có thể tùy lúc nhận nơi thí chủ, hoặc có thể dùng những phẩm vật khi được chia quân Tăng…”.[4]
Vậy là đã rõ, không còn nghi ngờ gì trong việc người xuất gia vẫn có thể hiếu dưỡng cha mẹ, và dùng cách nào để phụng dưỡng. Ngoài ra, cũng nội dung dạy về việc cho phép hàng tỳ kheo, đệ tử xuất gia của đức Phật, cung cấp thực phẩm, y phục cho cha mẹ, nếu chúng ta đọc nhiều kinh luật một chút, tìm hiểu cặn kẽ, đều có thể thấy ý ấy trong: Tăng Nhất A Hàm quyển 11, Thiện Tri Thức Phẩm; kinh Trung A Hàm quyển 12, phẩm Vương Tương Ưng; hay Tạp A Hàm kinh quyển 4…
Đức Phật dạy đối với cha mẹ, nếu chỉ hiếu dưỡng, tức lo cho cha mẹ được no ấm, tương đối đầy đủ về chất không chưa đủ. Mà phải tiến hơn một bậc, biết hướng cho cha mẹ làm các điều lành, lánh những nghiệp dữ, dần dần tu hạnh giải thoát để ra khỏi sanh tử luân hồi, ấy mới là điều khó.
Bản thân đức Thích Ca Mâu Ni, sau khi thành chánh giác, đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp độ thân mẫu và chư thiên cõi ấy; kết quả là rất nhiều vị chứng được Tứ quả (dự lưu, tư đà hàm, a na hàm và a la hán), trong đó có hoàng hậu Maya. Thuyết này được ghi trong kinh Ma Ha Ma Ya (摩訶摩耶經) hay còn gọi Phật Thăng Đao Lợi Thiên Vi Mẫu Thuyết Pháp kinh (佛昇忉利天為母說法).[5] Ngoài ra, trong kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, kinh Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán…cũng có nói đến. Như vậy, bên cạnh cung phụng cha mẹ các nhu yếu phẩm trong cuộc sống, hàng đệ tử Phật còn dùng pháp giải thoát độ cha mẹ xa lìa nẻo ác, sống đời an lành, chết sanh lạc cảnh.
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha. Vì thế, hiếu dưỡng cha mẹ hiện đời, đồng thời cũng phải cứu độ cha mẹ trong quá khứ và vị lai. Cho nên, trong cách nhìn của Bồ tát thì tất cả nam nhân đều là cha, phàm là người nữ tức mẹ mình. (kinh Phạm Võng). Đã là cha mẹ, thì chúng ta phải hiếu thuận. Tới đây chúng ta có thể nói rằng, nếu làm như những gì nêu và phân tích ở trên, thì người đệ tử xuất gia của đức Phật trong việc báo đáp thâm ân cha mẹ, không những làm tốt mà còn có phần hơn người. Mà muốn độ được cha mẹ nhiều đời thì phải đắc thành Phật đạo, điều này không dễ. Trong Đại Phương Tiện Phật Báo Ân kinh quyển 1 nói: “Vì hiếu dưỡng cha mẹ, biết ân và báo ân, mà đời này mau đắc thành trí tuệ giải thoát”( 為 孝 養 父 母 , 知 恩 報恩 故 , 今 得 速 成 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩提).[6] Như vậy, việc xuất gia tu hành một phần cũng là để báo ơn cha mẹ, chứ không phải chẳng liên quan gì.
Quay lại ý kiến của các vị am hiểu cổ học, có lẽ do quý phật tử ấy được giáo dục theo truyền thống Nho học, nên dưới quan niệm thiên về gia tộc, tư tưởng tông pháp nên mới cho rằng, người xuất gia không làm trọn hiếu đạo, hay nói cách khác là bất hiếu, vì không lập gia đình để có thế hệ kế gia thừa nghiệp ông bà. Đó là một trong những tư tưởng chủ đạo về hiếu trong sách Mạnh Tử của Nho giáo. Sách viết: “不孝有三 , 無後為大”,  ba điều sau gọi là bất hiếu: 1. Nghe lời một cách mù quáng, khiến cha mẹ đến chỗ bất nghĩa; 2. Nhà nghèo cha mẹ thì già yếu, không ra làm việc (quan) để nuôi cha mẹ; 3. Không có con trai để nối dõi. Trong ba điều đó, không có người nối dõi tông đường là tội bất hiếu lớn nhất. Có lẽ vì tư tưởng này mà một số vị theo cổ học cho rằng hàng xuất gia không tròn chữ hiếu. Mà nếu phân tích đến dây, quý vị vẫn cứ đứng trên quan niệm này mà đánh giá, thì cũng chẳng còn gì để bàn luận. Chỉ nói thêm, chính vì tư tưởng Vô Hậu Vi Đại, mà ngày nay xã hội Trung Quốc (nơi Nho học hình thành và phát triển) đang gặp phải vấn đề rất lớn do tỉ lệ nam nữ quá chênh lệch. Ngoài ra, ngày nay, sau khi kết hôn có con, lúc này chỉ chăm lo nuôi dưỡng con mình, rất ít người phụng dưỡng cha mẹ đẻ, chứ chưa nói đến nuôi dưỡng thêm cha mẹ của vợ hoặc chồng. Vậy, có con đã thật sự là có hiếu chưa? Cứ như thế đời này qua đời khác, chỉ lo nuôi dạy con cái mà quên phụng dưỡng cha mẹ, vậy, hiếu đạo có tròn không?
Hàng đệ tử Phật lại còn được dạy, pháp cứu cha mẹ ra khỏi đường ngạ quỷ, hay cảnh khổ do các nghiệp ác đã tạo tác trong quá khứ và hiện tại. Pháp này tên gọi Vu Lan Bồn.  Ðức Phật dạy rằng, muốn cứu cha mẹ thoát thọ quả khổ, phải nhờ thần lực của mười phương Tăng thanh tịnh; nên vào cuối mùa an cư của chư Tăng, sắm sanh lễ vật trai nghi dâng lên cúng dường. Vì sau ba tháng an tịnh tu trì, giới định tuệ tăng trưởng, lúc ấy, chư Tăng dùng định tâm vận lòng từ, cảm ứng được thế giới của người chết. Người quá vãng cảm nhận được cái năng lực đó, phát tâm lành, sanh thiện ý, mới mong thoát khỏi u đồ. Đó là cách đức Phật dạy ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi cảnh quỷ đói. Pháp Vu Lan Bồn từ đó được lưu truyền, đến ngày nay chúng ta có mùa Vu Lan tháng bảy (AL).
Dù đã có pháp Vu Lan Bồn, thế nhưng tốt hơn hết, chúng ta nên hướng cha mẹ hiện đời quy kính Tam bảo, giữ năm giới và hành thập thiện. Tức là: 1. không sát sanh; 2. không trộm cắp, hay nói “Không lấy đồ vật người không cho”; 3. không tà dâm; 4. không nói dối; 6.  không nói thêu dệt; 7. không nói hai chiều; 8. không nói xấu người, không nói lời ác hại; 9. không tham lam; 10. không ôm ấp những ý niệm, kiến giải sai lầm. Vì đó là gieo cái nhân lành để sau khi trả báo thân này, lại được làm người hay sanh lên cõi trời. Thiết nghĩ đó mới là cách báo hiếu tốt nhất.
Vậy, người xuất gia học Phật, theo lời Phật dạy, y luật phụng hành làm tròn hiếu đạo. Phụng dưỡng, chăm sóc mẹ cha về mặt vật chất đủ đầy. Hơn nữa, còn đem công đức tu hành hồi hướng đến cha mẹ nhiều đời, dẫn dắt mẹ cha hiện thế xa đường ác, làm việc lành, sống an lành trong chánh pháp của Như lai, khi mãn phần có thể được sanh về cõi tịnh.


[1] Kiếp : gốc tiếng Phạm Kalpa (1 kiếp) có hai thuyết, một cho là  243.000.000 năm; thuyết khác nói là 4.320.000 năm.
[2] Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (ĐTK), q.3, p.297.
[3] ĐTK, q.22, p.140.
[4] ĐTK, q.24, p.428.
[5] ĐTK, q.12, p.1011. hoặc bản tiếng việt tại: http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-phat-codam/pcodam-11.htm
[6] ĐTK, q.03, p.127

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét