Sau
6 năm khổ hạnh, 45 năm thuyết pháp độ sinh, cuối cùng công đức của Đức
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng đã viên mãn. Cuộc đời vĩ đại của Đức
Phật từ lúc đản sanh đến lúc nhập Niết Bàn luôn là bài học lớn có giá
trị mặc dù đã trãi qua hơn 25 thé kỷ. Suốt cuộc đời hành đạo của mình,
Đức Phật chỉ nhận mình là bậc Đạo sư, là người dẫn đường. Ngài luôn dạy
các đệ tử phải tự mình tu tập và cũng chỉ tự bản thân mình mà thôi,
không ai có thể giúp đỡ được. "Tự mình điều ác làm. Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình ác không làm. Tự mình làm thanh tịnh. Tịnh, không tịnh tự mình.
Không ai thanh tịnh ai"(Pháp Cú, kệ 165)
Đấng
Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương và các chư thiên ở cung trời Đâu Suất thỉnh
bồ tát Hộ Minh tái thế để giáo hoá và cứu độ chúng sinh ở cõi Ta Bà
Hoàng hậu Ma Da (Maha Maya) nằm mộng thấy một con bạch tượng rất lớn đến từ ngọn núi vàng dâng lên cho bà một đóa sen trắng.
Vào
ngày mồng 8 tháng 4 năm 624 TCN, hoàng hậu Ma Da(Maha Maya) hạ sinh
thái tử Tất Đạt Đa(Siddhārtha) tại vườn Lâm Tỳ Ni(Lumbini). Khi sinh ra,
ngài đã đi bảy bước, mỗi bước nở ra một đóa sen. Ngài một tay chỉ trời,
một tay chỉ đất và nói rắng : "Thiên thượng, thiên hạ. Duy ngã độc
tôn". Sau khi sinh ngài được bảy ngày thì hoàng hậu Ma Da qua đời. Thái
tử được giao cho người dì là Ma Ha Ba Xà Bà Đề(Maha Pajapati Gotami)
nuôi dưỡng.
Vua cha Tịnh Phạn(Suddhodana) vui mừng bèn triệu tập các vị thánh giả, đạo sư để xem tướng và cầu phúc cho con trai của mình.
Một
hôm có vị đạo sư tên là A Tư Đà(Asita) đến từ Hy Mã Lạp Sơn(Hymalaya)
xin yết kiến vua để chúc mừng và xem mặt thái tử. Ngài A Tư Đà xem xong
bật khóc. Vua Tịnh Phạn hỏi nguyên nhân. A Tư Đà thưa rằng : "Thái tử có
đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sau này nhất định sẽ trở thành bậc chánh
đẳng, chánh giác. Tôi khóc là vì tới lúc đó thì tôi đã chết rồi nên
không có cơ hội nghe pháp của ngài".
Thái
tử Tất Đạt Đa lớn lên là người trầm tư, hay tìm những nơi thanh tịnh để
thiền định. Một hôm trong ngày lễ Hạ Điền, ngài thấy người nông dân cầm
roi đánh con trâu đang nặng nhọc kéo cày phía trước. Lưỡi cày xới tung
đất lên cuốn theo những con trùng, có con bị nắng thiêu đốt, có con bi
lưỡi cày cắt thành nhiều đoạn đang quằn quại. Lại có những con chim nhỏ
bay xuống gấp lấy những con trùng đó, rồi lại có những con chim lớn đuổi
bắt những con chim nhỏ. Ngài cảm thấy buồn phiền với những điều mình
vừa trông thấy, nên đã ra một gốc cây to để thiền định.
Thái
tử Tất Đạt Đa được nuôi dạy rất chu đáo về cả văn lẫn võ. Với sự thông
minh và sức mạnh phi thường của mình, đến năm 12 tuổi ngài đã thông thạo
tất cả các học vấn. Từ năm 13 tuổi ngày được truyền thụ võ nghệ. Ngài
có sở trường bắn cung rất thiện xạ. Trong một lần trong một cuộc thi bắn
cung, ngài đã nâng được chiếc cung rất nặng mà từ trước đến giờ chưa ai
nâng nổi và bắn xuyên qua 7 lớp bia đồng trong khi người giỏi nhất cũng
chỉ bắn xuyên được 3 lớp.
Sau
khi giành chiến thắng trong cuộc thi tuyển chọn phò mã. Ngài đã kết hôn
với công chúa Da Du Đà La (Yasodhara) lúc ngài được 16 tuổi.
Vua
cha Tịnh Phạn rất yêu quý và luôn cung cấp cho ngài những thứ tốt nhất
trên đời. Ngài đã có 13 năm sống cùng vợ trong sự tột cùng của nhung
lụa.
Một
ngày khi đi dạo bốn cửa thành, ngài đã nhìn thấy 4 hình ảnh đó là : một
người già yếu, một người bệnh tật, một xác chết và một vị tu sĩ. Ngài
nhận ra một điều là con người ta được sinh ra rồi già đi, rồi sẽ bị bệnh
tật và cuối cùng sẽ chết cho dù người đó có là ai đi chăng nữa. Ngài
trân quý hình ảnh siêu thoát của vị tu sĩ.
Ngài
quay về cung nhìn thấy các cung nữ say sưa, thân thể lõa lồ, nằm ngổn
ngang trong phòng khiến ngài cảm thấy sự ô uế của con người.
Qua
bao nhiêu sự việc, ngài quyết định ra đi tìm đường giải thoát. Ngài đến
phòng của mình, ghé cửa nhìn vào người vợ yêu dấu Da Du Đà La và đứa
con thơ La Hầu La(Ràhula) lần cuối trước khi lên đường.
Thế
rồi ngài đã cỡi con ngựa Kiền Trắc(Kantaka) cùng với người nô bọc của
mình là Xa Nặc(Channa) bỏ lại kinh thành ra đi vào giữa đêm khuya.
Khi
đến bờ sông Anoma, ngài đã cắt tóc, trao lại ngựa, tháo bỏ tất cả trang
sức quần áo đưa cho Xa Nặc và kêu Xa Mặc trở về. Khi đó ngài được 29
tuổi.
Sau
khi đã thọ giáo hết với 2 vị thấy đầu tiên là Alara Kalama và Uddaka
Ramaputta ngài đã đến một khu rừng để tu ép xác khổ hạnh cùng với 5 anh
em Kiều Trần Như(Kondana). Sau 6 năm tu ép xác, thân thể ngài càng suy
nhược, yếu ớt tưởng chừng sắp chết. Đến khi ngài nghe được tiếng đàn của
đấng Phạm Thiên Indra, ngài liên tưởng đến loại dây đàn không quá căng
cũng không quá chùng nên ngài đã phát hiện ra con đường trung dung -
Trung Đạo. Ngài đã ăn uống bình thường trở lại. Điều này khiến cho 5 anh
em Kiều Trần Như thất vọng và đã bỏ ngải để ra đi tìm nơi khác tiếp tục
ép xác tu hành.
Ngài đã thọ nhận bát cháo sữa của nàng Sujata.
Sau
khi thọ thực xong, ngài đã đặt chiếc bát xuống dòng sông Ni Liên và thệ
nguyện sẽ đạt được giác ngộ rốt ráo. Chiếc bát đã trôi ngược theo dòng
nước. Sau đó ngài đã băng qua dòng nước và được anh nông dân cúng dường
bó cỏ Kusa (một loại cỏ thơm), Ngài bèn dùng bó cỏ làm gối lót tọa
thiền, rồi đến ngồi dưới gốc cây Bồ Đề(Boddhi) mà phát nguyện: “Nếu
không đạt thành đạo quả, ta quyết không đứng dậy và không rời khỏi chỗ
này.”
Khi
ngài đang ngồi thiền thì bất chợt có một cơn mưa trái mùa rất lớn. Thần
rắn Naga liền bò ra khỏi hang, quấn mình quanh chổ ngồi của ngài 7 vòng
để nâng ngài lên và dùng đầu của mình để che mưa cho ngài.
Ngài
đã ngồi quán tưởng các duyên khởi, nhìn thấy được các kiếp trước của
mình, của chúng sanh, sự hình thành và hủy diệt của thế giới, của nhiều
thế giới.
Ma
vương Vasavatti cùng đoàn tùy tùng đã đến quấy nhiễu ngài. Một vị nữ
thần từ trong lòng đất đã đánh bại ma vương để hộ pháp cho ngài. Nhờ tu
tập pháp độ trong nhiều kiếp nên ngài đã nhiếp phục ma vương một cách dễ
dàng. Cuối cùng ma vương cũng bị khuất phục và thành tâm đảnh lễ với
ngài.
Vào
buổi bình minh trăng tròn tháng 4 năm 588 TCN, ngài đã hoàn toàn giác
ngộ trở thành một đấng chánh đẳng, chánh giác, một vị Phật.
3
người con gái của Ma vương vẫn không buông tha cho ngài và lại tìm cách
quyến rũ ngài nhưng họ đều thất bại trước một vị toàn giác như ngài.
Đấng Phạm Thiên đã cầu xin Đức Phật đem chánh pháp giáo hóa chúng sanh. Đức Phật đã nhận lời hoằng pháp độ sinh.
Đức
Phật đã chuyển pháp luân đầu tiên tại Lộc Uyển(vườn Nai) gần thành Ba
La Nại(Benares). Ngài đã giảng bài pháp đầu tiên là Tứ Diệu Đế cho 5 anh
em Kiều Trần Như. Sau này cả 5 người này đều đắc quả A-la-hán
Vào
ngày Magha (rằm tháng 6) Đức Phật đã giáo giới cho 1250 vị Tỳ kheo. Nội
dung tóm tắt là : "Không làm các điều ác. Gắng làm các việc lành. Giữ
tâm ý trong sạch. Chư Phật đều dạy thế".
Thân
phụ của Đức Phật là vua Tịnh Phạn đã già yếu. Nghe tin Đức Phật giảng
pháp ở thành Vương Xá(Rajagaha), vua bèn sai sứ giả đến mời Đức Phật về
thành Ca Tỳ La Vệ(Kapilavatthu). Cả 9 vị sứ giả vua sai đi khi đến nơi
thì đều nghe được Phật thuyết pháp, xin xuất gia và thành quả A-la-hán.
Đến vị sứ giả thứ 10 đến (vị này tên là Kaludayi vốn trước đây từng là
bạn thân của Đức Phật khi ngài còn là thái tử), sau khi nghe Phật thuyết
pháp cũng xin xuất gia và đắc quả A-la-hán nhưng cũng không quên chuyển
lời của vua Tịnh Phạn đến Đức Phật. Đức Phật nghe xong đã nhận lời và
cùng các thánh đệ tử lên đường về thăm gia đình.
Ngày
thứ 2 sau khi về thăm nhà, nhà vua mở tiệc ở Hoàng cung và mời Đức Phật
cùng thánh đệ tử thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Đức Phật cùng vua cha
và 2 thánh đệ tử là ngài Xá Lợi Phất(Sariputta) và ngài Mục Kiền
Liên(Moggalana) đã đến phòng công chúa Da Du Đà La. Sau khi vào phòng,
Đức Phật đã ngồi vào chổ sắp sẳn. Sau khi công chúa đảnh lễ ngài, ngài
đã thuyết giảng chuyện bổn sanh Candakinnara để nói về mối liên hệ giữa
ngài và công chúa. Ngài đã khen ngợi công chúa: "Không phải chỉ trong
kiếp sống cuối cùng của Như Lai mà trong tiền kiếp, nàng đã bảo vệ, kỉnh
mộ và trung thành với Như Lai.". Sau đó ngài đã an ủi công chúa và giã
từ hoàng cung. Về sau công chúa Da Du Đà La cũng xuất gia theo Đức Phật
và đã đắc quả A-la-hán. Trong hàng các vị tăng ni thì bà Da Du Đà La đã
chứng đắc thần thông cao nhất (Maha Abhinna).
Ngài
thứ 3 sau khi về thăm nhà của Đức Phật cũng chính là ngày cưới của
hoàng tử Nanda. Hoàng tử Nanda vốn là anh em cùng cha khác mẹ với Đức
Phật. Trong lễ cưới Đức Phật trao cho Nanda chiếc bát, đọc kinh cầu phúc
rồi ngài vờ như quên thâu lại và đi về tịnh xá. Nanda vì kính nể Đức
Phật nên phải ôm bát đi theo. Về đến tịnh xá, Đức Phật hỏi Nanda có muốn
xuất gia hay không. Nanda vì nể nang anh mình nên đã miễn cưỡng đồng ý
nhưng trong lòng thì luôn nghĩ đến người vợ trẻ đẹp mới cưới của mình.
Đức Phật biết điều này nên đã dùng thần thông dẫn Nanda đi dạo lên cõi
trời. Trên đường đi Nanda thấy có một con khỉ cái lông trên mình đã bị
cháy xém bám trên một cành cây. Khi lên đến cung trời Đâu Suất, Nanda
lại thấy có vô vàng tiên nữ với vẻ đẹp tuyệt vời. Đức Phật chỉ đám tiên
nữ và hỏi Nanda : "Này Nanda, so với những tiên nữ này thì vợ mới cưới
của ngươi thế nào ?". Nanda đáp rằng : "Nếu đem so với những tiên nữ này
thì cô ấy giống như con khỉ cái bị cháy đang cố bám lấy cành cây khô".
Đức Phật lại bảo Nanda : "Nếu ngươi kiên trì thực hành giáo huấn thì sau
này ngươi sẽ có nhiều cung tần mỹ nữ đẹp như thế này". Nanda nghe nói
thế trong lòng phấn chấn và cố công tu tập nhưng ngài đã bị các vi tỳ
kheo khác chê cười vì mục đích tu tập tầm thường của mình. Ngài đã tỉnh
ngộ, nhận thức được mục đích thấp hèn của mình nên ngài đã gạt bỏ những
tư tưởng xấu xa, tinh tấn nổ lực tu tập. Về sau ngài chứng được quả
A-la-hán.
Vào
ngày thứ 7 khi Đức Phật lưu lại quê nhà, công chúa Da Du Đà La đã mặc y
phục đàng hoàng cho La Hầu La(Rahula) và chỉ vào Đức Phật mà bảo La Hầu
La hãy đến xin tài sản của cha con đi. La Hầu La lúc ấy được 7 tuổi, là
con trai duy nhất của Đức Phật, đã đến bên Đức Phật và bạch rằng : "Xin
ngài hãy trao tài sản của ngài cho con vì tài sản của ngài cũng là của
con". Đức Phật nghĩ thầm : "Nó muốn gia tài của cha, nhưng tài sản trong
thế gian quả thật đầy phiền não. Như Lai sẽ ban cho nó gia tài cao
thượng gồm bảy phần mà Như Lai đã thâu đạt dưới cội bồ đề. Như Lai sẽ
giúp cho nó trở thành sở hữu chủ của một gia tài siêu thế." Thế rồi ngài
làm lễ xuất gia cho La Hầu La và cho theo ngài Xá Lợi Phất thọ giáo.
Khi
vua Tịnh Phạn hấp hối, Đức Phật đã đến bên giường bệnh và giảng pháp
lần cuối cùng cho vua cha. Vua Tịnh Phạn nghe xong liền đắc quả
A-la-hán. Sau khi hưởng sự an lạc trên trần thế được 7 ngày, vua Tịnh
Phạn nhập niết bàn.
Đức Phật đã dùng thần thông để lên cung trời Đao Lợi giảng Vi Diệu pháp (Kinh Địa Tạng) độ cho Phật mẫu là hoàng hậu Ma Da.
Đức Phật từ cung trời Đao Lợi trở về thế gian, các hàng chư thiên ra đưa tiễn rất đông.
Khi
tròn 80 tuổi, Đức Phật biết việc thuyết pháp giáo hóa chúng sinh của
mình đã viên mãn, đó là lúc Như Lai sẽ nhập niết bàn. Ngài đã nói với
ngài A Nan là 3 tháng nữa ngài sẽ nhập diệt. A Nan thành khẩn cầu xin
Đức Phật sống thêm 1 kiếp nữa nhưng Đức Phật đã từ chối và giảng pháp vô
thường. Từ thành Tỳ Xá Ly(Vaisali) Đức Phật đã cùng với A Nan và các
thánh chúng đệ tử đi đến thành Câu Thi Na(Kusinara). Trên đường đi Đức
Phật đã thuyết pháp giáo độ chúng sanh rất nhiều. Khi đến Pava, Đức Phật
và thánh đệ tử được ngưởi thợ rèn tên là Thuần Đà(Cunda) thiết tiệc
trai. Thuần Đà còn làm riêng cho Đức Phật món đặc biệt là sùkaramaddava.
Đức Phật nhìn thấy món ăn đã ngăn không cho các đệ tử của mình dùng và
nói rằng : "Chỉ có Như Lai mới ăn và tiêu hóa được thức ăn này mà thôi".
Sau khi thọ trai xong, Đức Phật đã bị kiết lỵ rất nặng. Tuy cơ thể rất
mệt mỏi nhưng Đức Phật vẫn bình thản tiếp tục hành trình. Đức Phật tắm
lần cuối cùng ở sông Kakutthi, và sau khi nghỉ một lát, Ngài nói với Đại
đức A Nan: "Có thể có người trách Thuần Đà về bữa cơm cuối cùng dọn cho
Ta, vì sau bữa ăn đó Ta sẽ nhập Niết bàn, và Thuần Đà có thể ăn năn hối
hận. Nhà ngươi cần nói cho Thuần Đà biết rằng, có hai bữa ăn cúng dường
cho Như Lai, đem lại công đức lớn nhất cho người cúng dường. Đó là bữa
ăn cúng dường Như Lai trước giờ Như Lai thành đạo và bữa ăn cúng dường
Như Lai trước giờ Như Lai nhập Niết bàn. Hãy nói cho Thuần Đà biết rằng,
nhờ đã cúng dường Như Lai bữa ăn cuối cùng trước khi Như Lai nhập Niết
bàn, Thuần Đà được phúc đức lớn, quả báo lớn, nhờ đó mà Thuần Đà được
thọ mạng lâu dài, tái sanh ở cõi lành, giàu có, tiếng tăm, được sanh lên
cõi trời và có quyền lực lớn. Này A Nan, ngươi hãy nói như vậy để loại
bỏ mọi nỗi ân hận của Thuần Đà, nếu có".
Đức
Phật đến vườn cây Sala ở Kusinara, nơi có bộ tộc Mallas ở, và bảo Đại
đức Ananda chuẩn bị chỗ nằm, để Đức Phật yên nghỉ, đầu hướng Bắc, nằm
nghiêng mình, chân phải để trên chân trái, bình thản, tỉnh táo. Lúc này
có 1 đạo sĩ tên là Subhadda xin vào gặp Đức Phật. Ngài A Nan đã từ chối
vì nhận thấy lúc này Đức Phật đã rất mệt nhưng Đức Phật bảo A Nan cho
người đạo sĩ đó vào. Sau khi nghe Phật thuyết giảng, Subhadda xin Phật
xuất gia. Đây cũng là vị đệ tử cuối cùng của Đức Phật. Phật lại căn dặn A
Nan và thánh chúng đệ tử gắng sức tu tập để đạt được giải thoát. Sau đó
Đức Phật im lặng từ từ đi vào thiền định và nhập Niết Bàn vào năm 543
TCN.
Sau
6 năm khổ hạnh, 45 năm thuyết pháp độ sinh, cuối cùng công đức của Đức
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng đã viên mãn. Cuộc đời vĩ đại của Đức
Phật từ lúc đản sanh đến lúc nhập Niết Bàn luôn là bài học lớn có giá
trị mặc dù đã trãi qua hơn 25 thé kỷ. Suốt cuộc đời hành đạo của mình,
Đức Phật chỉ nhận mình là bậc Đạo sư, là người dẫn đường. Ngài luôn dạy
các đệ tử phải tự mình tu tập và cũng chỉ tự bản thân mình mà thôi,
không ai có thể giúp đỡ được. "Tự mình điều ác làm. Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình ác không làm. Tự mình làm thanh tịnh. Tịnh, không tịnh tự mình.
Không ai thanh tịnh ai"(Pháp Cú, kệ 165)
Đệ tử Thiện Ý xin cuối đầu thành tâm đảnh lễ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
Nguồn tham khảo:
http://www.chuadonghung.com
http://gdpttunghiem.com
http://hoalinhthoai.com
Ngày nay, điêu khắc tượng phật nằm,tượng bổn sư thích ca, tượng phật thích ca đẹp không chỉ mang tính chất tâm linh thành kính của phật tử mà còn là nét đẹp nghệ thuật trong văn hóa
Trả lờiXóa