Trang
Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012
Chiến hạm các nước đổ về quanh Biển Đông
Tàu điện ngầm lỗi hẹn đến năm 2018
- Tuyến metro đầu tiên từ trung tâm thành phố ra cửa ngõ Đông Bắc đã chính thức lỗi hẹn với người dân sau khi tăng vốn chóng mặt.
Thông báo mới đây của Ban quản lý đường sắt đô thị TP.HCM (BQLĐSĐT)
về thời gian dự kiến đưa tuyến metro số 1 đi vào hoạt động khiến dư
luận không khỏi âu lo.
Xe container lật, đường sắt Bắc - Nam tê liệt
Rạng sáng 28/5, xe container đang chạy trên quốc lộ 1A bỗng lật nghiêng và bị đoàn tàu SE3 đâm phải. Hàng loạt tàu khách và tàu hàng phải dừng lại chờ khắc phục sự cố.
Khoảng 3h sáng, xe container biển Hưng Yên đang
chạy tốc độ cao bỗng̣ lật nghiêng trên đường sắt, đoạn qua huyện
Quỳnh Lưu (Nghệ An). Cùng lúc tàu khách SE3 từ Hà Nội vào Sài
Gòn chạy tới, dù cố gắng phanh gấp nhưng đầu máy tàu vẫn đâm
vào xe container.
Thanh niên 17 bị xe máy cán chết vì lạng lách
Sau
nhiều cú lạng lách, đánh võng của hai “quái xế” làm người đi đường
khiếp vía, một trong hai kẻ điên rồ đã tự ngã lăn xuống đường và bị xe
máy khác cán chết tại chỗ…
Hai
thanh niên đua xe với tốc độ kinh hoàng, một người lạc tay lái té xuống
đường bị xe khác cán chết. Tai nạn xảy ra vào chiều ngày 27/5 trên
đường 26 thuộc phường 10, quận 6, TP.HCM.
Bách khoa toàn thư Phật giáo được xuất bản tại Nga
Mười điều tâm niệm của người xuất gia
Đây là bài kinh quan trọng đối với hàng xuất gia, vì lẽ nội dung bài kinh cho thấy chân dung đích thực của người xuất gia, nghĩa là một người luôh luôn có những suy nghĩ, trăn trở và hoài bão làm thế nào để xứng đáng là người xuất gia đúng như lời Đức Phật dạy.
Lược ý hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm
Lợi ích tốt đẹp của việc tín ngưỡng Phật giáo
Những điểm đặc sắc của đạo Phật
1/ Phật là người mà không phải là thần
Nhìn chung các tôn giáo trên thế giới, ngoài Phật giáo ra,
Hỏi đáp về nghiệp báo
Tìm hiểu hình ảnh Đức Phật
Đức Phật có thật hay không ?
Tất cả các tài liệu lịch sử đều chứng minh cho thấy là Đức
Phật có thật và sống cách nay đã hai-mươi-sáu thế kỷ. Ngài là con của
một vị vua thuộc dòng họ Thích-ca (Sakya) trị vì một vương quốc nhỏ dưới
chân dãy Hy-mã-lạp sơn, trong một vùng thuộc lãnh thổ Nepal ngày nay.
Tên tục của Ngài là Tất-đạt-đa (Siddharta), họ là Cồ-đàm - vì thế mà
người ta thường gọi Đức Phật là Ngài Cồ-đàm.
Trong thời gian khi còn tu khổ hạnh người ta còn gọi Ngài
bằng một tên khác là Thích-ca Mâu-ni, có nghĩa là "Vị Thánh Nhân của Yên
Lặng thuộc dòng họ Thích-ca".
Sau khi nhất quyết là sau này sẽ không đảm nhận chức vụ thủ lãnh nắm giữ quyền bính tạm thời (tức chính trị)
trong vương quốc của vua cha thì Ngài từ bỏ cung điện xa hoa để chọn
cuộc sống của một người tu tập tâm linh. Khi ba mươi tuổi thì Ngài đạt
được giác ngộ và sau đó thì bắt đầu thuyết giảng. Ngài đã mang lại một
niềm khích lệ lớn lao và sáng lập ra tập thể những người xuất gia. Ngài
tịch diệt bên cạnh các đệ tử của mình khi được tám-mươi tuổi.
Những kinh nghiệm cảm nhận chủ yếu nào đã khiến cho Đức Phật trở thành một người sáng lập tôn giáo?
Những vấn đề khúc mắc khiến cho Đức Phật hằng ray rứt đều
mang tính cách vô cùng sâu xa và khác thường. Có phải là Ngài đã hỏi tại
sao chúng ta lại cứ dấn thân vào một cuộc sống luôn phải phấn đấu chỉ
để mang lại sự hung bạo và để kéo dài bất tận sự hung bạo đó. Tại sao
chúng ta lại phải gạt bỏ cái nhân tính tiềm tàng trong chính mình để
chọn cho mình một cuộc sống dẫy đầy hận thù? Tại sao chẳng mấy khi chúng
ta có dịp để chứng tỏ rằng mình là một con người? Tại sao chúng ta lại
không thể thực hiện được những gì mình hằng mong ước mà lại cứ đắm mình
vào những thứ không nên làm?
Đấy là những gì mà Đức Phật đã ưu tư. Con người luôn bị lọt
ra bên lề cuộc sống. Họ tranh đấu nhằm mang lại cho mình thành công và
hạnh phúc, thế nhưng càng vùng vẫy bao nhiêu thì những mục tiêu ấy lại
càng trở nên xa vời bấy nhiêu.
Tuy sống trong huy hoàng thế nhưng Đức Phật cũng biết là có
nhiều người khác đã từng chối bỏ sự hào nhoáng ấy để quay lưng đi và
quên nó (các người tu khổ hạnh vào thời bấy giờ). Ngài tự hỏi tại sao lại có thể như thế được.
Trái với những gì người ta thường hiểu một cách sai lạc, thật
sự là ta không thể tìm thấy được lời giáo huấn nào mang nhiều tính cách
tự tin và lạc quan hơn những lời giảng dạy của Đức Phật.
Đức Phật luôn căn cứ vào hiện thực và nhận thấy chỉ có một
con đường duy nhất có thể mở ra một lối thoát cho con người. Đấy là cách
không nên cố gắng tìm mọi cách để lẩn trốn khổ đau, bất toại nguyện và
lo buồn mà phải nỗ lực quan tâm tìm hiểu chúng. Thật vậy có rất nhiều
phương tiện giúp chúng ta nhìn vào cách mà chúng ta đang sống.
Cái lâu đài đầy tiện nghi mà vua cha đã dựng lên để cố kềm
giữ Ngài thật ra chỉ là một nhà tù với các bức tường được dựng lên bằng
sự sợ hãi. Tương tự như vậy, chúng ta cũng đang bị giam giữ trong cái
ngục tù của sự kinh hoàng trước bệnh tật, già nua và chết chóc, và đấy
chính là những gì khiếp đảm nhất của hiện thực.
Suốt gần năm-mươi năm từ khi đạt được giác ngộ cho đến lúc
tịch diệt, Đức Phật không một lúc nào lại không nhắc nhở cho chúng ta
biết là chúng ta đang tự lừa dối mình. Chúng ta không nên trốn lánh sự
sợ hãi và khổ đau mà phải lắng nghe chúng hầu tìm hiểu chúng, và đấy là
cách duy nhất để giúp chúng ta có thể loại bỏ được chúng.
Hãy nhìn thẳng vào sự hiện hữu của chính mình để phấn đấu.
Chưa hẳn là mình sẽ thắng, thế nhưng cũng chưa phải là mình sẽ thua. Đã
là con người thì chúng ta lúc nào cũng có đủ khả năng giúp mình tự giải
thoát khỏi mọi thứ gông cùm xiềng xích - chẳng hạn như việc thay đổi thể
dạng tâm thần của mình.
Phương pháp luyện tập thiền định sẽ giúp chúng ta thực hiện được điều ấy.
Đấy cũng chính là con đường mà Đức Phật đã mở ra cho chúng ta.
Đức Phật là một vị trời hay một con người?
Đức Phật không giống như các vị sáng lập ra các tôn giáo khác
bằng cách chỉ dựa vào Kinh Sách - chẳng hạn như Abraham, Moïse, Chúa
Ki-tô hay Mahammed. Đức Phật không phải là một nhà tiên tri (prophète
/ prophet, tiếng Hy Lạp là prophêtês, có nghĩa là một vị tự cho mình
mang tính cách linh thiêng, tiên đoán được những biến cố sẽ xảy và dựa
vào đó để mà thuyết giảng bằng lời hay bằng chữ viết. Các biến cố mà các
vị ấy tiên đoán thường là các tai ương sẽ xảy ra trong tương lai - tức
có nghĩa là một sự hăm dọa). Đức Phật trái lại chỉ là một con người
bình dị đã nêu lên những kinh nghiệm cảm nhận mà mỗi con người đều có
thể thực hiện được. Ngài không hề nắm giữ bất cứ gì mang tính cách thần
khải. Không có ai trao truyền cho Ngài một thông điệp mang tính cách
linh thiêng, siêu nhiên hay thuộc vào một thế giới khác hơn là cái thế
giới này.
Thiên Chúa Giáo đòi hỏi các tín đồ phải tin vào Chúa Ki-tô
tức là vị Con Trời đã chết trên cây thánh giá và sau đó thì sống lại.
Trọng tâm của tôn giáo ấy dựa vào một đức tin vượt lên trên mọi khả năng
lý luận.
Trái lại đối với sự thật nêu lên trong giáo huấn của Đức Phật
thì đơn giản là chỉ dựa vào một thể dạng tự do và sinh động của thực
tại - dù cho thể dạng ấy mang tính cách tiềm ẩn, tức là còn bị che khuất
và u mê. Con đường chỉ là một cách đơn giản giúp chúng ta nhận thấy
đích thật cái thể dạng ấy và giúp nó hiển lộ ra trong lòng mình. Đức
Phật không hề quan tâm đến Đấng Tối Cao hay các vị trời khác. Dầu sao đi
nữa theo Đức Phật thì các vị ấy không thể giúp mình tự giải thoát cho
mình được. Con đường duy nhất là phải ngồi xuống để nhìn vào những kinh
nghiệm cảm nhận của chính mình trong từng giây phút một, với tất cả sự
chân thật và ngay thẳng. Quả thật là chẳng ai có thể làm được việc ấy
thay cho mình cả.
Vào thời khắc trọng đại nhất khi Đức Phật sắp đạt được sự Giải Thoát, nghĩa là lúc Ngài sắp bước sang phía bên kia (để đạt được sự Giác Ngộ)
thì cũng chính là lúc mà Ngài bị ma quỷ tấn công mãnh liệt nhất. Chúng
tìm đủ mọi cách làm cho Ngài phải bị hủ hóa, chúng quyến rũ để đánh lạc
hướng Ngài, thế nhưng đồng thời đấy cũng chính là lúc mà Ngài đã biểu lộ
một hành động thật phi thường, một hành động độc nhất trong lịch sử
nhân loại, mang một chiều sâu vô hạn: Ngài đã dùng bàn tay của mình để
chạm vào mặt đất và mượn mặt đất làm nhân chứng cho Ngài.
Thay vì trỏ tay lên trời để bảo cho mọi người biết rằng sứ
mạng của mình là do Trời giao phó thì Đức Phật lại hướng tay mình xuống
mặt đất của thế gian này. Rất nhiều ảnh tượng biểu trưng cho cái dấu ấn
thật tinh tế ấy của Đức Phật khi Ngài dùng bàn tay mình để chạm vào mặt
đất. Thật vậy không thể có một biểu tượng nào mang nhiều ý nghĩa hơn thế
để chứng minh cho thấy rằng trước hết Ngài chỉ là một con người bình
dị, bình dị như mỗi con người trong tất cả chúng ta. Một con người bước
đi trên mặt đất này và chỉ quan tâm đến những gì thật đơn sơ của hiện
thực mà không hề chờ đợi những ước mơ và hy vọng xa vời.
Khi nhìn một pho tượng Phật chúng ta cũng có thể nhận thấy
được sự biến đổi của một con người, đấy là một tấm gương nêu lên lòng
quả cảm và quyết tâm đã khiến cho một con tim ngập tràn bởi sự an bình
và niềm yêu thương, là một bầu không gian mở rộng của tình thương yêu
tinh khiết và của cả thực tại nữa - và đấy cũng là những gì hiện hữu
trong từng giây phút một.
Như vậy nếu hiểu được ý nghĩa đó thì chúng ta cũng nên tránh
các thói quen suy nghĩ nhị nguyên của mình từ trước để nhìn vào Đức Phật
như là một con người hoàn hảo và hoàn toàn thiêng liêng.
Các ảnh tượng biểu thị Đức Phật có trung thực với hình ảnh của chính Ngài hay không?
Người nghệ sĩ không phải là một phóng viên báo chí mà họ chỉ
là người diễn đạt. Họ chỉ tìm cách thể hiện các phẩm tính nơi sự hiện
hữu của Đức Phật mà không chú ý đến các đặc tính trên thân thể Ngài.
Nhằm đạt mục đích đó các nghệ nhân trước hết đã dựa vào một số biểu
tượng dễ nhận biết nhất để biểu thị cho Đức Phật: thí dụ như một chiếc
ngai, vết chân của Ngài, chiếc bánh xe tượng trưng cho giáo huấn của
Ngài, một đóa hoa sen...
Về sau này, chính xác hơn là vào thế kỷ thứ I, thì mới thấy
nảy sinh ra ý kiến biểu thị Đức Phật qua nhân dạng con người. Điều này
sở dĩ xảy ra có lẽ là do người Hy Lạp đã nhìn vào Đức Phật xuyên qua
hình ảnh vị thần Apollo của họ (có thể xem thêm bài viết "Nghệ thuật biểu thị nhân dạng Đức Phật" trên trang nhà Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức,...).
Ngày nay chúng ta có thể biết thêm rằng Đức Phật vào thời bấy
giờ rất có thể là một người gầy còm và da dẻ màu sậm đen chứ không như
một số ảnh tượng mà chúng ta vẫn thường thấy ngày nay. Nhờ vào việc
nghiên cứu Kinh sách Chính Thống bằng tiếng Pa-li và nhất là dựa vào các
công trình khảo cứu của các sử gia hiện đại thì người ta mới hiểu rằng
Đức Phật không phải là một vị hoàng thân tầm cỡ lớn, cũng không sống
trong một lâu đài nguy nga, mà đúng hơn thì Ngài chỉ là con của một vị
vương công khiêm tốn trong vùng. Thế nhưng điều ấy nào có gì là quan
trọng.
Hình tượng chỉ giữ vai trò gợi lại những lời giáo huấn mà
Ngài đã để lại cho chúng ta, nhưng tuyệt nhiên không phản ảnh một sự
thật nào về xác thân con người của Ngài. Hơn nữa tại mỗi vùng địa lý,
người ta lại hiểu giáo huấn của Ngài một cách khác đi đôi chút, con
người ở những nơi ấy đã thích ứng Phật Giáo với lịch sử của họ và cả
những gì mà họ ước mơ, để rồi hình dung ra hình ảnh của Ngài một cách
khác đi (xin chú ý đây cũng là ý nghĩ mà tác giả sẽ khai triển khi trình bày về nguồn gốc của Đức Phật Di Lặc trong phần kết).
Thế nhưng phải hiểu rằng tất cả những hình ảnh ấy đều nói lên một sự
thật duy nhất, dù không mang tính cách lịch sử đi nữa thì sự thật tâm
linh ấy cũng hàm chứa một giá trị thật cao
Dù có cố gắng tìm lại hình ảnh Đức Phật lịch sử với bất cứ
giá nào thì đấy cũng chỉ là một cách bám víu phát sinh từ bản chất vô
minh của mình, và cũng cho thấy là mình chẳng hiểu gì cả về những lời
giáo huấn của Ngài. Bản thân của Đức Phật chẳng có gì hệ trọng cả. Đấy
chỉ là một biểu tượng sống thực của sự Giác Ngộ. Điều mà chúng ta cần
tìm kiếm chính là sự giác ngộ chứ không phải là các chi tiết liên quan
đến tiểu sử của Ngài hay là dáng vóc của Ngài.
Hãy nhìn lên hình tượng của Đức Phật. Cái hình tượng đó gợi lên trong trí ta điều gì?
Một thể dạng an bình và một lòng nhân ái mở rộng hướng thẳng vào con tim của mình. Đấy mới thật là những gì chính yếu.
Chúng ta học được những gì từ các ảnh tượng của Đức Phật?
Trước hết các ảnh tượng ấy cho biết Ngài là ai. Vào thời đại
của chúng ta ngày nay, vai trò ảnh tượng không còn giữ được tính cách
thiêng liêng như trước nữa. Đối với chúng ta, khá lắm thì đấy cũng chỉ
là những tác phẩm gợi lên một sự say mê nào đó dưới khía cạnh thẩm mỹ.
Thế nhưng đối với người Phật tử thì ảnh tượng của Đức Phật là những gì
giúp họ tiếp cận trực tiếp với sự hiện diện của Ngài trong thực tại. Các
ảnh tượng ấy không phải là các tác phẩm của một nghệ sĩ nhằm mô tả
những cảm hứng của mình. Người sáng tạo ra các ảnh tượng ấy luôn tìm
cách xóa bỏ chính mình để nhường chỗ cho những gì họ muốn diễn tả có thể
bộc lộ ra với sự rạng rỡ nguyên sinh của nó. Nếu nhìn theo chiều hướng
ấy thì bất cứ một tác phẩm Phật Giáo nào cũng đều mang tính cách thiêng
liêng, đều nhằm phản ảnh cái đẹp tinh khiết nhất của nó. Cái đẹp đó
không có mục đích mang đến cho chúng ta một cảm xúc thích thú nào cả mà
đúng hơn là giúp mở rộng con tim của chúng ta một cách thật kiên cường
và quảng đại.
Quả thật hết sức khó để có thể đọc những gì được ghi trong
các trang kinh sách viết bằng tiếng Phạn hay tiếng Pa-li hầu thấu triệt
được các lời giảng dạy của Đức Phật. Hàng rào ngăn cách về ngôn ngữ là
một trở ngại lớn. Việc dịch thuật không mấy khi mang lại các kết quả
mong muốn và hơn nữa cuộc sống tân tiến ngày nay đã khiến cho một số các
lời giảng huấn mà người ta cho là của Đức Phật có thể trở nên khó hiểu.
Thế nhưng đơn giản hơn cả là chỉ cần nhìn vào ảnh tượng của Đức Phật
thì chúng ta cũng có thể cảm nhận được sự hiện diện của Ngài. Con đường
này thật vô cùng giản dị.
Đôi khi ảnh tượng cũng đủ để giúp chúng ta nhận thấy quyết
tâm phi thường của Ngài trong khi thiền định: toàn thân Ngài rắn lại vì
cố gắng. Còn có một tấm gương nào quý giá hơn để chúng ta nhìn vào hay
không?
Đôi khi ảnh tượng cũng cho thấy Ngài dường như vượt thoát
khỏi mọi thứ căng thẳng và hiện ra như một thực tại thật tinh khiết và
tự nhiên không cần phải biểu lộ, bởi vì cái thực tại tinh khiết ấy đã
vượt lên trên tất cả mọi tiêu chuẩn nhỏ hẹp.
Tại sao các ảnh tượng của Đức Phật lại thường giống nhau?
Bởi vì việc biểu thị Đức Phật chỉ có tính cách tượng trưng
nhằm nói lên các phẩm tính của sự Giác Ngộ nơi Ngài. Ảnh tượng thường
cho thấy trên đỉnh đầu của Ngài có một cái bướu (tượng trưng cho trí tuệ) và giữa hai lông mày thì có một túm lông nhỏ (tượng trưng cho sự quán thấy sâu xa).
Hai trái tai thì thòng xuống, đấy là vì phải đeo các bông tai thật nặng
khi Ngài còn là một vị hoàng thân. Tóc cắt ngắn tượng trưng cho cuộc
sống xa lìa thế tục, bởi vì vào thời bấy giờ tóc để dài là cách biểu
trưng cho quyền lực và uy thế. Động tác của hai tay thì luôn mang một ý
nghĩa nào đó, chẳng hạn như để nói lên rằng: " Đừng lo sợ", "Hãy cố lắng nghe những lời giảng huấn" hoặc "Mặt đất này là nhân chứng duy nhất của Ta".
Khi nói rằng Đức Phật là bản thể đích thật của ta thì đấy có ý nghĩa gì?
Đức Phật khuyên chúng ta nên thức tỉnh hầu giúp chúng ta có
thể quán nhận được những gì cao quý trong sự hiện hữu của chính mình,
bởi vì nếu thiếu sự tỉnh thức thì chúng ta nào có thể khám phá ra được
thể dạng cao quý của chính mình. Nếu nhìn vào khía cạnh đó thì quả thật
là không có gì sai lầm hơn khi biến Đức Phật thành một thần tượng điện
ảnh Hollywood để nhìn vào đấy mà bắt chước theo. Điều đó không thể chấp
nhận được. Đức Phật không thuộc vào bất cứ một nơi nào cả bởi vì Ngài
đang trú ngụ trong tâm thức của chính ta. Không nên tôn thờ Ngài từ bên
ngoài mà phải nhận thấy được Ngài đang hiện hữu trong lòng mình.
Biết suy tư để nhận ra được điều ấy không phải là chuyện dễ
chỉ vì chúng ta vẫn có thói quen luôn đi tìm những gì mong muốn ở những
nơi không thể nào có được những thứ ấy, tức là những nơi mà chúng ta
luôn phạm vào mọi sự sai lầm. Thế giới Tây Phương thường xem con người
là kẻ phạm tội, luôn bị chi phối bởi tội lỗi. Dó đó phải tuân thủ một số
quy luật và nghi lễ nào đó để chủ động lấy mình, để mình không lăn
xuống vực sâu.
Đối với hầu hết các tín ngưỡng thì vấn đề mấu chốt là: làm
thế nào để khống chế được mình, không để cho con thú ẩn nấp bên trong
mình đè bẹp được mình ?
Phật Giáo không chia sẻ quan điểm ấy. Phật giáo chỉ nhìn vào
những nơi nào có thể phát huy được lòng tốt mà thôi. Phật Giáo không ngả
theo và cũng không chống lại Rousseau (1712-1778, là nhà văn, triết
gia và soạn nhạc gia người Pháp, chủ trương một khái niệm mang tính cách
vừa triết học vừa chính trị liên quan đến bản chất tự nhiên của con
người trước khi xã hội được hình thành, và cái bản chất đó là những gì
mang lại hạnh phúc cho con người - ghi chú thêm của người dịch). Thế nhưng ông ta lại không hề khẳng định là con người chỉ có thể hoàn hảo dưới thể dạng rừng rú (tức thuộc vào thời bán khai khi chưa bị xã hội hủ hóa). Ông ta xem đấy là một thứ gì mang bản chất tốt (đại khái như khái niệm "nhân chi sơ tính bản thiện" của Khổng Tử)
hướng vào các kinh nghiệm của sự cảm nhận, và ông dựa vào đấy mà phân
tích một cách thật khắt khe để tìm hiểu tại sao chúng ta lại chối bỏ và
làm cho ô uế cái bản chất tốt ấy đi.
Kinh Hoa Sen có thuật lại một câu chuyện về một người
nghèo khó tìm gặp một người bạn thuở thiếu thời. Người bạn này thì lại
thật giàu có và khi trông thấy cảnh khốn cùng của bạn mình bèn kín đáo
nhét vào áo của người này một viên ngọc thật quý mà không nói gì cả,
chẳng qua cũng vì không muốn cho bạn mình biết để khỏi ái ngại. Nhiều
năm sau thì bất ngờ người này lại gặp lại bạn cũ và thấy bạn mình vẫn cứ
nghèo đói như xưa. Quá đỗi ngạc nhiên, người này liền sờ vào vạt áo của
bạn mình và nhận ra là viên ngọc vẫn còn đấy. Qua không biết bao nhiêu
năm tháng dài mà người ấy vẫn không tìm được viên ngọc quý trong áo
mình. Quả là chúng ta cũng chẳng khác gì với người ăn xin ấy vì mang
trong người một viên bảo châu mà nào có hề hay biết.
Con đường của Đức Phật cũng không có mục đích nào khác hơn là giúp chúng ta tìm thấy cái kho tàng quý giá đó của chính mình.
Cái kho tàng ấy không phải là một món quà tặng của Đấng Tối
Cao mà thật ra là sở hữu riêng của tất cả mỗi con người. Vậy làm thế nào
để biết được cái gia tài đó?
Hãy lấy một thí dụ.
Khi ta đang tản bộ giữa một khung cảnh thiên nhiên và bỗng
cảm thấy vô cùng xúc động, đến độ chỉ muốn hòa mình vào cảnh thiên nhiên
đang tỏa rộng ấy để nhập thành một thực thể với nó, và sẽ không còn một
ngăn cách nào giữa ta và thế giới chung quanh. Cái kinh nghiệm cảm nhận
ấy cũng có thể xảy ra khi gặp được một con người nào đó, và từ cuộc gặp
gỡ ấy bộc phát ra một thứ cảm tính tự nhiên của tình thương yêu. Đấy
là giây phút tượng trưng cho một sự mở rộng, và con người ấy biết đâu
cũng có thể là Đức Phật. Con đường sẽ tập cho chúng ta biết trú ngụ
trong chính nét mặt của Ngài.
Khi nào kinh nghiệm cảm nhận về một sự mở rộng như trên đây
giúp cho ta hòa nhập với nó thì nó sẽ đánh thức trong ta một sự hiểu
biết thật căn bản để luôn ước vọng được đặt niềm tin của mình vào nó.
Phật giáo không phải là một sự mong cầu tìm được một cái gì mà mình
không có, mà đúng hơn chỉ là con đường giúp mình trở về với chính mình.
Đức Phật có phải là người lập ra một tôn giáo, một học phái triết lý hay một ngành tâm lý học hay không?
Phật giáo cũng có việc cúng kiến, cũng có chùa chiền, tất cả
các thứ này có thể là nguyên nhân khiến người ta có cảm tưởng là Phật
Giáo cũng không khác gì với các tôn giáo theo kiểu Do Thái Giáo, Thiên
Chúa Giáo hay Hồi Giáo. Thế nhưng thật ra thì lại khác hẳn. Lý do chính
yếu nhất là Phật Giáo không tin vào một vị Trời sáng tạo, và điều đó
cũng cho thấy Phật Giáo là một tôn giáo duy nhất không tin tưởng có
Thượng Đế (non-theism).
Phép thiền định mà Phật Giáo đưa ra không nhằm vào mục đích
hòa nhập với một thể dạng linh thiêng, hoặc một sự tuyệt đối, hoặc bất
cứ một thể dạng đơn thuần tri thức nào cả, mà đúng hơn là để phát huy
một sự chú tâm chính xác và bền vững hướng vào tất cả những gì đang hiện
hữu.
Phật Giáo cũng không phải là một tín ngưỡng dựa vào giáo
điều. Người tu tập theo Phật Giáo không cần phải phát lộ đức tin của
mình đối với bất cứ một thứ gì để dựa vào đó mà trở thành một người Phật
tử. Trái lại là đằng khác, các vị thầy Phật Giáo thường nhắc nhở người
tu tập phải luôn cảnh giác và thắc mắc để tự tìm hiểu thêm. Đức Phật đã
từng nói rằng: "Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ vì đấy
là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của
Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các
lời dạy của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực
hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang
ra thực hành".
Có một điều cần phải khẳng định một cách dứt khoát là Đức
Phật không thể nào cứu độ chúng ta được. Thật vậy Đức Phật không thể làm
gì được cho chúng ta cả. Ngài chỉ có thể trỏ cho chúng ta thấy một con
đường, và mỗi người trong chúng ta phải tự mình bước theo con đường đó.
Mỗi người phải nhận lãnh trách nhiệm về sự hiện hữu của chính mình.
Phật Giáo cũng không phải là một triết học, bởi vì Phật Giáo
luôn tránh không trả lời các loại câu hỏi đơn thuần chỉ mang tính cách
tự biện hay siêu hình.
Kinh sách kể chuyện về một người cứ khăng khăng nhất quyết
đòi hỏi Đức Phật phải giải đáp cho bằng được, thế rồi Ngài đành phải
thuật lại cho người ấy nghe một câu chuyện như sau: "Nếu có ai bắn
một mũi tên làm cho mình bị thương và mình biết rõ đấy là một mũi tên có
tẩm một thứ thuốc độc thật mạnh. Vậy có nên tìm hiểu xem người bắn mũi
tên mang tên gì, giai cấp xã hội của hắn là gì, hắn từ làng nào đến
đây, cái cung và mũi tên của hắn làm bằng vật liệu gì? Tất nhiên là
không nên thắc mắc về những điều ấy. Trái lại thì phải phản ứng nhanh
chừng nào tốt chừng ấy để rút mũi tên ra khỏi vết thương và tìm ngay
thuốc hóa giải chất độc để mà băng bó". Chính vì lý do đó mà Đức Phật thường được xem như một vị lương y hơn là một hiền giả hay một triết gia.
Ngay cả các tư tưởng của Long Thụ thường được xem là các tư
tưởng thuộc loại tinh tế nhất trong Phật Giáo cũng không thuộc vào lãnh
vực triết học. Lý do thật hết sức đơn giản là vì triết học chỉ là một
cách thắc mắc của người Hy Lạp mà thôi (cũng xin mạn phép nhắc thêm là tác giả tốt nghiếp tiến sĩ triết học tại đại học Sorbonne Paris).
Nếu không chú ý đến khía cạnh trên đây thì sẽ khó tránh khỏi
những điều nghịch lý hết sức trầm trọng. Trong lãnh vực triết học người
ta thường tìm cách chuyển những gì không biết trở thành biết (hiểu biết bằng sự lý luận và tự biện triết học) và đấy cũng là cách phủ nhận những gì mang tính cách cá biệt của Phật Giáo (tức phủ nhận Phật Giáo vượt lên trên triết học).
Phật Giáo không giống với bất cứ một cơ cấu triết học nào của Tây
Phương - dù đấy là chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa yếm thế, chủ nghĩa
hưởng lạc.... Cũng không thể nào đưa Phật Giáo đến gần với các tư tưởng
của Descartes, Spinoza, Kant hay Nietzche (ba triết gia đầu tiên chủ trương có Trời, vị thứ tư thì cho là “Trời đã chết”).
Phạm vi và cách nhìn của Phật giáo ở vào một nơi khác. Do đó thật hết
sức quan trọng phải luôn bảo vệ sự độc đáo của Phật Giáo.
Phật Giáo cũng có những bài hát, những lời xiển dương, nghi
thức cúng bái, lễ lạc - và nhất là thiền định. Do đó Phật Giáo không
phải là một hình thức suy tư tự biện về hiện thực mà đúng hơn là một con
đường đích thật liên quan đến từng hành động, ngôn từ và tư duy của
chúng ta.
Phật Giáo mang đến cho tất cả mọi con người thuộc mọi giới
tính một con đường giúp cho họ sống một cách toàn vẹn sự hiện hữu của
chính họ. Con đường ấy không dẫn dắt chúng ta bước vào một xứ sở nào
khác mà chỉ đơn giản là đưa chúng ta đến gần hơn với chính con người của
mình, nơi đó đang vang lừng tiếng hát của cả một không gian rộng lớn.
Phật Giáo là một "con đuờng không chủ đích" hay là một "lối đi không lối đi" - đấy là cách nói nhằm nhấn mạnh sự kiện là hành động bước theo con đường sẽ quan trọng hơn nhiều so với kết quả mong cầu sẽ đạt được do con đường đó mang lại.
Phật Giáo có phải là vô thần hay không?
Phât Giáo không tôn thờ một vị Trời Sáng Tạo, thế nhưng đấy
không có nghĩa Phật Giáo là vô thần. Thật thế Phật Giáo luôn cảnh giác
chúng ta trước mọi hành vi mang tính cách tín ngưỡng và khuyên chúng ta
phải luôn quán xét và thận trọng đối với khá nhiều điểm tương đồng trong
cuộc phấn đấu của chủ nghĩa vô thần nhằm giải thoát cho mình ra khỏi
các gông cùm tạo ra từ các thứ giáo điều.
Tuy nhiên mặt khác thì Phật Giáo cũng lại rất gần với các tôn giáo của chúng ta (tức của người Tây Phương),
chẳng hạn như khi một vị tu sĩ Phật giáo gặp một vị tu sĩ Thiên Chúa
Giáo thì cả hai đều cảm thấy là mình cùng chia sẻ một thứ gì thật chủ
yếu.
Dầu sao thì Phật Giáo cũng mang tính cách vô-thần thật sâu
xa. Phật Giáo chủ trương một sự phân tích không nhân nhượng nhằm vạch
ra cho thấy cái bẫy đang được giăng ra trong các tín ngưỡng hữu thần:
đấy là cách mà ta phải khẳng định là có một vị trời khác với mình, và
tiếp theo đó thì vị trời lại dựa vào sự hiện hữu của ông ấy để mà xác
nhận là có sự hiện hữu của ta và còn thiết đặt cả cho ta các kinh nghiệm
cảm nhận của chính ta (có nghĩa là vị ấy có thể ban cho ta hạnh phúc hoặc trừng phạt ta).
Mỗi khi con người nói đến một vị trời nào đó thì đấy cũng chỉ
là cách khoác thêm cho vị ấy hình ảnh của chính mình, sau khi đã phóng
đại nó và ghép thêm cho nó các phẩm tính thật hoàn hảo. Trời chỉ là một
hình ảnh khuếch đại thật khổng lồ của chính chúng ta.
Khi nào vị trí của Vị ấy và của mình được phân định hai bên
rõ rệt thì tất nhiên cũng sẽ xảy ra việc cầu khẩn Vị ấy, trông chờ vào
sự nâng đỡ cũng như sự giải cứu của Vị ấy. Dầu sao thì đôi khi chúng ta
cũng có thể cảm nhận được một mối tương liên nào đó (giữa Trời và chúng ta) được thắt chặt, thế nhưng nhiều lúc thì chúng ta cũng có có cảm giác là mối dây đó bị đứt (thiếu đức tin). Quả thật hết sức khó để có thể tạo ra một mối liên hệ với Trời khi ta vẫn còn hình dung ra được hình ảnh của Vị ấy (khi vẫn còn hình dung ra hình ảnh của Vị ấy khác với mình thì làm thế nào mà mình có thể hội nhập với Vị ấy được).
Thật vậy có một số nhà thần bí chủ trương là Trời không ở bên
ngoài con người. Trong số này có thể kể ra vị Thầy Eckhart hay thánh nữ
Thérèse de Lisieux, đấy là những người mà Phật Giáo cảm thấy khá gần
gũi.
Tại sao Phật Giáo vô thần mà lại có một số thánh thần địa phương đông đảo đến thế?
Nếu căn cứ vào các khái niệm của Tây Phương từng chịu ảnh hưởng
nặng nề bởi Thiên Chúa Giáo và các cuộc chiến hung hãn và dai dẳng của
tôn giáo này chủ xướng để chống lại "dị giáo" (tôn giáo đa thần của người La Mã trước khi Thiên Chúa Giáo thâm nhập vào Âu Châu)
thì sẽ không thể nào hiểu được sự nghịch lý trong câu hỏi trên đây. Đối
với Thiên Chúa Giáo thì việc thờ cúng thần thánh địa phương và thế tục
là một thứ nọc độc, một thứ dị đoan cần phải nhổ bỏ tận gốc khỏi đầu óc
của quảng đại dân gian.
Phật Giáo không bao giờ chủ trương cách ứng xử ấy mà luôn tin
vào sự hiện hữu của thật nhiều các vị thần thánh. Phật Giáo chỉ tìm
cách chuyển họ trở thành những sinh linh phục vụ cho Đạo Pháp. Các vị
thần núi hay các vị thần ao hồ đều có thể có thật, với điều kiện là phải
tôn kính họ và không được tách họ ra khỏi nơi trú ngụ của họ. Ta chỉ
cần xin phép họ được lưu trú trong lãnh địa của họ và nhờ họ giúp đỡ,
thế nhưng tuyệt nhiên đấy không phải là cách giúp mình có thể dập tắt
được ngọn lửa của khổ đau (chỉ có Phật Giáo đích thật mới giúp chúng ta thực hiện được việc ấy).
Đấy cũng là một cách biểu lộ sự bao dung của Phật Giáo đối
với các tín ngưỡng khác. Tại Trung Quốc Phật Giáo cùng phát triển chung
với Khổng Giáo, Lão Giáo và các tín ngưỡng dân gian khác. Tại Nhật Bản
thì Phật Giáo và Thần Đạo cùng tồn tại bên nhau và cùng hướng vào việc
tôn thờ thiên nhiên và các vị thần linh trú ngụ trong các bối cảnh thiên
nhiên ấy.
Ngoài ra Phật Giáo còn ghép thêm vào số các vị thần linh của
thiên nhiên vô số các vị Phật khác với mục đích biểu trưng cho muôn ngàn
thể dạng phát hiện của sự giác ngộ. Chữ Phật không nhất thiết là một
danh từ riêng mà đúng hơn là một "tước vị" mang ý nghĩa một "Vị Giác
Ngộ". Ngay cả vào các thời kỳ nguyên thủy, tín ngưỡng Phật Giáo cũng đã
bắt đầu chủ trương sự hiện hữu của nhiều Vị Phật khác từng sống trên địa
cầu này vào những thời đại thật xa xưa, hoặc sẽ xuất hiện ra sau này.
Tại sao lại có nhiều Phật đến thế?
Nếu muốn giải đáp thắc mắc này thì trước hết phải tự hỏi: "Vậy Đức Phật là ai?".
Đấy có phải là một con người đã từng sống trong một thời đại
lịch sử nhất định hay chỉ là những thể dạng hiện hữu dưới muôn ngàn
gương mặt khác nhau?
Tương tự như đại dương mang các tính chất khác nhau như ướt,
mênh mông và mặn, tâm thức của Đức Phật cũng thế và cũng có thể phát lộ
dưới nhiều hình thức khác nhau, như lòng từ bi, trí tuệ và nhiều thể
dạng sinh hoạt khác nhau...
Theo quan điểm của Phật Giáo, nếu xem chư Phật hàm chứa một
sự hiện hữu riêng biệt mang tính cách cá thể thì nhất định đấy là một
điều sai lầm và sự sai lầm đó cũng chẳng khác gì với sự sai lầm khi cho
rằng chư Phật không hề hiện hữu. Tôi ý thức được rất rõ là cách nói đó
khá khó hiểu. Thế nhưng cũng phải cố gắng để hiểu mà thôi. Phải cần có
nhiều vị Phật khác nhau để giúp chúng ta mở rộng con tim và tâm thức của
mình hầu có thể thích nghi với các cách suy nghĩ khác nhau. Nếu xem các
vị ấy là thật thì sẽ có thể đưa đến tình trạng không nhận biết được thể
dạng rộng mở mà họ có thể mang đến cho chúng ta, và chúng ta thì cũng
sẽ rơi vào một hình thức đơn thuần của việc tôn thờ ảnh tượng. Trái lại,
nếu xem các vị Phật ấy không thật và đơn giản chỉ là những gì mang tính
cách huyễn hoặc, một thứ ảnh tượng hay là các biểu trưng thần tượng,
thì chính đấy cũng sẽ là cách mà chúng ta đánh mất đi sự giúp đỡ quý báu
của họ.
Có một vị Phật mang một cái bụng thật to thường thấy trong các nhà hàng ăn của người Tàu, vị ấy mang ý nghĩa như thế nào?
Ở Trung Quốc người ta thường thấy một vị Phật đầu hói, béo
phì, vui cười một cách hả hê, vị này khoác áo cà-sa và có một cái bụng
thật to. Cách biểu thị đó đối với một vị Phật quả thật cũng đáng để
chúng ta phải ngạc nhiên vì rõ ràng là lọt ra ngoài các cách biểu thị
thông thường.
Nguồn gốc của nhân vật này là một vị thánh biểu trưng cho sự
giàu sang. Cái bụng to tướng và cái vẻ hả hê của ông cũng như cả một đám
trẻ con bu chung quanh ông là nhằm vào mục đích nêu lên sự giàu có của
chính ông và đồng thời thì ông cũng sẽ sẵn sàng ban sự giàu có của mình
cho những ai cầu xin mình. Vị này luôn mang bên người một cái túi vải
đầy ắp các thứ quý giá, nào là lúa gạo, nào là kẹo bánh cho trẻ con. Tóm
lại vị ấy là biểu tượng của hạnh phúc, sự may mắn và sung mãn.
Phật Giáo không hề loại bỏ các thói tục thờ phụng địa phương
dù là ở bất cứ nơi nào tại Á Châu, mà chỉ tìm cách biến đổi phần nào ý
nghĩa của sự thờ phụng đó. Phật Giáo biến vị thần linh có nguồn gốc xa
xưa trên đây (thần tài) trở thành một vị biết tu tập Phật Giáo,
hoặc xem đấy như chính là một thể dạng hóa thân của vị Phật lịch sử. Vì
thế vị trên đây được xem là Phật Di Lặc, một vị Phật của tương lai (mang lại giàu có và hạnh phúc).
Bures-Sur-Yvette, 05.02.12
Hoang Phong chuyển ngữ
vui đạo 1
Giải Thoát Hay Ðeo Mang
Hai thầy trò đi qua một vùng sa mạc, đệ tử ngỏ ý:
- Thế gian chẳng khác sa mạc, nóng bỏng, khô khát. Xin Thầy dạy con điều thiện, giới luật, thiền định, thần thông, giáo lý, kiến thức... để con có thể giải thoát khỏi thế gian.
Lúc đó một đàn lạc đà đi qua trước mặt, vị Thầy chỉ đàn lạc đà nói:
- Có lẽ nào những con vật đáng thương sắp bị ngã quỵ vì trên lưng đã chất đầy những hàng hóa quý giá kia có thể ung dung tự tại được khi phải chất thêm nhiều hàng hóa nữa không?
- Thưa không.
- Cũng vậy, con vốn đã nặng nề với nhiều vô minh, ái dục chưa chịu buông xuống sao lại còn muốn học thêm?
Chùa Việt trên đất Mỹ
Ra mắt bộ phim “Dấu ấn hành trình Phật ngọc Hòa bình thế giới tại Hoa Kỳ”
Vì hạnh phúc và an lạc cho mọi người
... Người ta sinh ra đời không khác gì trái cây ở trên cành: có
những trái lớn, có những trái nhỏ; có những trái xanh, có những trái
già... Những trái cây ấy đã có lúc sinh ra tức có ngày rụng xuống: trái
rụng trước, trái rụng sau... nhưng rồi trái nào cũng phải rụng xuống
hết. Rụng xuống để biến thành cành hoa thơm hay rụng xuống
Kỳ lạ cậu bé thích ăn bất cứ thứ gì nhìn thấy
Suýt chết vì dùng thuốc nam trị nóng trong người
5 mẹo hay đánh tan mệt mỏi cho mắt
Làm việc nhiều trước máy vi tính,
đọc sách nhiều,... khiến đôi mắt luôn mệt mỏi và căng thẳng, thậm chí
rất đau đầu. Để giảm thiểu những tác dụng phụ không đáng có này, đừng
quên vận dụng 5 nguyên tắc sau:
“Ráng sống cùng bệnh thôi con, nhà đâu còn gì để bán nữa”
(Dân trí) – Chồng bị ung thư não vừa phẫu thuật
xong, con gái đứa bé thì viêm cầu thận, đứa lớn thì suy thận cấp 5 năm
sống chung với máy chạy thận khiến kinh tế kệt quệ, gia đình rơi vào
cảnh bần cùng túng thiếu đủ bề.
Tân Hoa xã phá vỡ im lặng về “con quỷ ăn thịt”
(Dân trí) - Tân Hoa xã hôm nay xác nhận một
người đàn ông đã bị bắt vì tình nghi giết 11 nam giới ở Trung Quốc, phá
vỡ im lặng về vụ bắt giữ một kẻ cô độc có biệt danh “con quỷ ăn thịt”.
Nhau thai khô - thuốc trị bá bệnh hay rác y tế?
Sau khi sản phụ sinh con, nhau thai (còn gọi là
tử hà xa) được mang đi tiêu hủy như một loại rác thải y tế nhưng lại
đang được các cơ sở đông y tại chợ dược liệu quận 5, TPHCM, bày bán công
khai với quảng cáo bồi bổ sức khỏe, trị bá bệnh!?.
Nhau thai khô của Trung Quốc được một cơ sở ở chợ đông y bán 500 nghìn đồng/bịch 100g. Ảnh: L.N.
Trị yếu sinh lý, ung thư
Lời kể xót xa của người phụ nữ quê lên phố... "đẻ thuê"
Người ta giải thích rằng mình chỉ đóng vai trò
"cho thuê tử cung" để đặt phôi thai của vợ chồng người ta vào, hơn nữa
khoản tiền 50 triệu đồng của hợp đồng thực sự rất cần thiết với gia đình
mình...
Vùng quê Ngọc Lặc xứ
Thanh vốn nghèo từ bao đời và gia đình tôi cũng vậy. Hai vợ chồng và 2
con nhỏ chỉ trông vào 3 sào ruộng khoán, lúc nông nhàn phải đi phụ hồ,
xách vữa mà tiền công chẳng được là bao. Năm 2007, để các con lại cho
chồng chăm, tôi theo một số người làng bắt xe ra Hà Nội tìm việc.
Hòa Thượng "CUA" và "Tình Mẫu Tử"
Không chỉ Ấn Độ mới có chuyện Đức Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất;
không chỉ Trung Hoa mới có chuyện 24 người con hiếu thảo, mà ở Việt Nam
ta cũng có những câu chuyện thật đã làm cảm động lòng Trời. Hòa thượng
Cua đã lo cho mẹ những ngày cuối đời hạnh phúc, lại độ mẹ được vãng
sanh về cõi lành.
Hòa Thượng "CUA" và "Tình Mẫu Tử" (tức Thiền sư Tông Diễn - đời Vua Lê Hy Tông)
Căn nhà lá xiêu vẹo mục nát bên bờ ao, ra vào chỉ có hai mẹ con. Mẹ buôn gánh bán bưng, tảo tần hôm sớm; đứa con trai còn nhỏ dại, đỡ đần mẹ những việc lặt vặt hàng ngày.
Một hôm mẹ bảo con:
Giới luật là thọ mạng của Phật pháp
Hòa thượng Thích Trí Tịnh
Ðức Phật là một đấng đại Từ Bi, Ngài xem tất cả chúng sinh mọi loài
như con một. Lòng yêu thương chúng sinh của Ðức Phật trong Kinh Lăng
Nghiêm có nói, như mẹ thương con, chỉ mong làm sao cho con mình được hết
tất cả khó và hưởng tất cả vui, cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ðức
Phật không có cái tâm tưởng nào khác ngoài tâm đại Từ đại Bi, ban vui
cứu khổ cho tất cả chúng sinh”. Vì vậy Ðức Phật ra đời, cũng không ngoài
mục đích ấy, vì thương chúng sinh như con một mà phải ban vui cứu khổ,
Giai thoại kỳ bí của bàn tay người chết vì sét đánh
Xưa nay vẫn có những câu chuyện ly kỳ về những
ngôi mộ chôn những người bị sét đánh. Người ta bảo rằng, những tên đạo
chích thường rình rập đào mộ để chặt lấy cánh tay của người bị sét đánh
làm “bảo bối hành nghề".
Chỉ cần đặt cánh tay đó để quay về
hướng nào thì tên trộm cứ tới đó mà... hành nghề, đảm bảo cuộc đào
tường khoét ngạch không bao giờ bị phát giác, đánh đâu thắng đó…
(Ảnh minh họa: An ninh Thủ đô)
Những ngôi mộ đổ bê tông
Cá lóc nặng 5,1kg rượt cắn vịt
Ông Thạch Riêng ở ấp Đại Trường, xã Phú Cần,
huyện Tiểu Cần-Trà Vinh vào chiều 24-5 đã bắt được một con cá lóc nặng
5,1kg. Con cá này có chiều dài 78cm, bề hoành tại điểm mang cá là 43cm.
Ông Thạch Riêng với con cá lóc nặng 5,1 kg
Ông Thạch Riêng còn cho
biết, vào thời điểm nói trên ông nghe đàn vịt trong mương vườn nhà mình
kêu la và chạy tán loạn. Thấy lạ ông chạy ra xem thì thấy một con cá
lóc to đang trườn mình lên đầu mương vườn đoạn nước cạn rượt cắn vịt
con. Ông Riêng liền chạy vào nhà lấy lưới ra chặn và bắt được con cá
này. Hiện con cá lóc đang được ông Riêng nuôi tại nhà và ông cũng báo tin cho bà con lối xóm đến xem con cá lóc to hiếm thấy này.
Theo Thanh Quang
Cần Thơ Online
Nặng Ký
Thấy một tín đồ thường đến chùa bố thí
cúng dường, tu tập Thiền định và học hỏi giáo lý rất siêng năng. Sư hỏi:
- Ông muốn cầu gì?
- Con muốn tích tập thêm công đức và hiểu biết để đến khi công đầy trí đủ thì đạt thành chánh quả.
Sư nói:
- Nếu vậy, lúc thành chánh quả chắc ông phải nặng ký lắm.
- Ông muốn cầu gì?
- Con muốn tích tập thêm công đức và hiểu biết để đến khi công đầy trí đủ thì đạt thành chánh quả.
Sư nói:
- Nếu vậy, lúc thành chánh quả chắc ông phải nặng ký lắm.
Những Nguyên Tắc Căn Bản Của Thiền Quán
HT. Sayādaw U Janaka
Tuyển tập này rút từ những lời dạy của HT. Sayādaw U Janaka vào năm
1983 khi Ngài tổ chức khoá tu tại Trung Tâm Thiền Học Phật Giáo Malaysia
(Malaysian Buddhist Meditation Centre) ở Penang. Tuyển tập này lúc đầu
được Thượng toạ Sujīva, một phần rút từ các pháp thoại buổi tối do HT
thuyết giảng, còn lại chủ yếu từ các bữa trình pháp của Thiền sinh tại
khoá tu.
Vì tập sách mỏng này phần lớn là những cuộc phỏng vấn riêng giữa
Thiền sư và Thiền sinh,
Một chế độ ăn chay đúng đắn
BS. Phạm Vũ Cường
Ăn chay là khuynh hướng đang thịnh hành ở các nước đang phát
triển vì nó giúp ngăn ngừa được nhiều bệnh tật. Một số người trong chúng
ta thì không ăn chay vì sợ thiếu chất. Một chế độ ăn chay đúng đắn sẽ
giúp chúng ta tránh được nhiều bệnh tật mà vẫn đảm bảo sức khoẻ.
Nhiều người trong chúng ta luôn tưởng nhầm ăn chay là chỉ ăn rau quả và đậu.
Hàn Quốc: Các bé cạo tóc xuất gia nhân lễ Phật Đản
Thanh Như (dịch)
Vào
ngày 13/5/2012, nhân nghinh đón kỷ niệm lễ Phật Đản, chùa Tào Khê -
Seoul Hàn Quốc, đã cử hành nghi thức thế phát xuất gia cho các bé trai. 9 "đồng tử tăng" (còn gọi là Tiểu chánh thái 小正太: bé đáng yêu) được cạo tóc trở thành tiểu Hòa thượng, có chú khóc rất to, có chú mỉm cười, và các chú sẽ thể nghiệm
Sự nghi ngờ cần thiết
ANI TENZIN PALMO | KHÁNH UYÊN dịch
Nếu tình cờ chúng ta gặp phải những điều nào đó mà chúng ta
cảm thấy khó chấp nhận được ngay cả khi chúng ta đã điều tra tìm hiểu
một cách thật cẩn thận, điều đó cũng không có nghĩa là toàn bộ một giáo
pháp chứa đựng những điều đó cần được vứt bỏ.
Có lẽ nền giáo dục Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo
Giải thích ngắn gọn Tại Sao Chúng Ta Lễ Lạy? Cách lạy Phật
1. Sự Tịnh hóa tánh Kiêu mạn
Đức Đạt Lai Lạt Ma vấn đáp về Tâm Thức
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
HỎI: Đưa ra sự kiện rằng trong truyền thống của
ngài hiện hữu những thể trạng trong sáng và có những báo cáo về những hành giả
kinh nghiệm thể trạng vi tế của tâm thức, câu hỏi của tôi có hai phần: Thứ nhất, những thể trạng vô phân biệt của
tâm thức trong lý thuyết có thể được quán sát với những khí cụ ngoại tại
không? Thí dụ, nếu chúng tôi để một thiền
giả người ở trong thể trạng linh quang vào trong một trong những máy móc hiện đại
của chúng tôi với những cộng hưởng từ trường, sử dụng những kỷ thuật hình dung
não bộ mới, chúng tôi có thể thấy điều
gì đấy, dấu hiệu gì đấy về thể trạng vi tế này không?
Con Người Thật
Có ông Tăng thuyết pháp rất tài nhưng giới luật rất bê bối. Tín đồ rất ngạc nhiên về con người đa diện ấy. Một người hỏi Sư:
-Ðâu là con người thật của ông ta?
Sư nói:
- Con người thật nhập Niết Bàn rồi.
Tâm Như
Nhập Viện hơn mười năm chưa thấy ngộ. Một Thiền sinh đến yết kiến Sư:
-Tâm con vẫn động làm sao tịnh được.
Sư nói:
-Chớ nghĩ tới động, tịnh. Hãy nghe bài kệ:
"Nếu mắt con đã bịnh
Nhìn hoa đốm lăng xăng.
Thời mặt tình hoa đến
Tâm Như mỉm nụ cuời".
Thiền sinh trở về thất lẩm bẩm hoài:
-Tâm Như sao lại cười được kìa?
Thần đồng 16 tuổi giải "bài toán 350 năm" của Newton
Cậu học trò 16 tuổi Shouryya Ray đã làm cả thế
giới sửng sốt khi công bố tìm ra lời giải cho bài toán "huyền thoại" của
Issac Newton từng khiến các nhà khoa học bó tay suốt 350 năm qua.
Sau khi công bố đáp án, Ray đã được
báo chí tung hô và ca ngợi là một ‘thiên tài’. Cậu học sinh đến từ
Dresden, nước Đức, đã giải quyết 2 lý thuyết cơ bản“Cháu sắp đi xa rồi, bà ơi !”
(Dân trí) Thằng bé yếu ớt chỉ còn da bọc xương
nhưng ai cho gì nó cũng phồng mồm nhai ngấu nghiến vì nó sợ phải chết
lắm. Và nó thương bà nội nữa bởi đêm nào nằm bóp chân cho nó, bà cũng
khóc mà than “Cháu mà bỏ đi thì bà cũng không sống nổi đâu”
Cậu
bé đáng thương đó là Phạm Công Mạnh (13 tuổi) hiện đang điều trị tại
phòng 606 – Bệnh viện huyết học và truyền máu TW. Chúng tôi để ý đến em
bởi cái thân hình gầy còm quá đỗi và không thể đi lại được bình thường
như những bệnh nhân khác. Ngồi kế bên là người bà với mái tóc đã bạc gần
hết, khuôn mặt rầu rầu tựa vào thành giường với ánh nhìn vô định nhưng
đôi bàn tay gầy vẫn đang miệt mài nắn bóp cho cháu.
Xôn xao chuyện cô gái Đức bị nhốt, đối xử như động vật suốt 8 năm
Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi
Thiền sư Ðạo Nguyên Thuần Bạch (Dịch)
1.-
Thiền sư Ðạo Nguyên và duyên khởi của "Phổ khuyến tọa thiền nghi".
Thiền sư Ðạo Nguyên Hy Huyền (Dogen Kigen, 1200-1253)
là khai tổ tông Tào Ðộng Nhật Bản. Năm 1224 sư sang Trung Hoa học đạo với thiền
sư Thiên Ðồng Như Tịnh (1163-1228) là tổ tông Tào Ðộng đời thứ 15. Sau khi được
thầy ấn chứng, sư trở về Nhật Bản vào năm 1228.
Bài "Phổ khuyến tọa thiền nghi" do thiền sư
Ðạo Nguyên soạn ngay sau khi ở Trung Hoa về tại chùa Kiến Nhân, Tokyoto từ ngày
5 tháng 10 đến ngày 10 tháng 12 năm 1288. Sư dựa vào nghi thức tọa thiền trong
quyển Thiền nguyên thanh quy của Tông Nghĩa, được viết vào năm 1103, cốt
khôi phục tinh thần của "Bách Trượng thanh quy".
Mười điều trọng yếu của sự tu hành
Pháp Sư Tịnh Không
Phật pháp quan trọng nhất là thực hành. Có bà cụ một chữ cũng
không biết, hoàn toàn không hiểu kinh dạy, chỉ biết ăn chay, lạy Phật,
chí thành niệm một câu Nam mô A-di-đà Phật mà được vãng sanh.
1. Hiếu dưỡng cha mẹ
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn
căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm
người. Chúng ta nghĩ thử ngay cả loài chim muông còn biết báo ân nuôi
mớm. Nếu như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ thì chẳng phải không bằng
loài cầm thú hay sao?
Ðược Cả Hai.
Một bà tín nữ vừa thờ Phật vừa thờ Thần tài.
Khách hỏi:
- Bà thờ Thần tài để làm gì?
Ðáp:
- Dĩ nhiên là để cầu tài.
- Thế còn thờ Phật?
- Thì để cầu giải thoát.
Khách nói:
- Bà quả là có phép thần thông "phân tâm nhị dụng".
Bảo Vệ Ðạo Pháp.
Sư hỏi một thanh niên mới xin nhập viện:
- Anh xuất gia với mục đích gì?
Thanh niên nói với vẻ nhiệt tình:
-Con muốn hoằng dường chánh pháp, bảo vệ đạo lý.
Sư nói:
Triết Học Là Gì?
Ðể mở mang kiến thức cho Tăng chúng. Thầy Giám học mời một vị Giáo sư đến dạy môn Triết.
Sau nhiều giờ học, Vô Văn lôi Ða Văn ra góc vườn nói một cách phấn khởi:
- Ðến nay tôi đã hiểu Triết học là gì rồi.
Ða Văn đang mù tịt cái môn quái đảng này hăm hở muốn nghe.
Vô Văn nói:
- Có gì đâu, Triết học chỉ là hệ thống một mớ ngôn ngữ phức tạp nói về những điều rất giản dị.
NGỘ
Một
Phật tử gốc Hoa nói :
"Ngộ"
cũng thấy "ngộ" khi "ngộ"
được lời giảng trong kinh điển
của Đức Phật.
Góp
ý : Chữ Ngộ có nhiều nghĩa. Ông này
là người Hoa (Quảng Đông), nên chữ
Ngộ thứ nhất có nghĩa là tôi. Chữ Ngộ
thứ hai có nghĩa là vui vui, ngộ nghĩnh,
chữ thường dùng trong Nam. Chữ Ngộ
thứ ba có nghĩa là giác ngộ, tìm kiếm ra chân
lý. Vậy câu trên có nghĩa: Tôi cảm thấy sung sướng
khi tìm ra chân lý của lời giảng trong kinh điển
của Đức Phật.
TU THIỀN
Bà
thương gia giàu có nọ thường giao
thiệp chơi hụi. Khi về già, bà chăm nghe băng
giảng và có ý muốn tu Thiền. Một hôm bà
hỏi vị Thiền sư:
-
Thưa Thầy, con phải tu thiền như thế nào?
Vị
Thiền sư trả lời :
Hình tượng bánh xe trong Phật giáo
Trên lĩnh vực tín ngưỡng và văn hoá, bánh xe cũng là một biểu
tượng rất phổ biến trong các truyền thống tôn giáo tại nhiều châu lục
khác nhau. Đối với Đạo Phật, biểu tượng này đã trở thành một trong những
hình ảnh tiêu biểu, thiêng liêng, và có ý nghĩa nhất cho sự hiện hữu
cũng như sứ mạng của truyền thống tâm linh này đối với nhân loại trong
hơn hai ngàn năm qua.
Bàn về Thiền Nguyên Thủy và Thiền Phát Triển
Minh Chi
Pháp
Sư Thái Hư cũng như Hòa Thượng Thích Minh Châu đều dùng các từ Như Lai
Thiền để chỉ Thiền Nguyên Thủy và Tổ Sư Thiền để chỉ các hình thức Thiền
Phát Triển sau này do các Tổ Sư các Thiền phái nổi danh đề xướng và
truyền lại cho các đệ tử của mình. Cũng có người dùng các từ Thiền Tiểu
Giáo (tức Thiền Tiểu Thừa) và Thiền Ðại Giáo (tức Thiền Ðại Thừa) như
Trần Thái Tôn trong bài "Tọa Thiền Luận" của Khóa Hư Lục.
Ghế sofa kiêm loa
Người dùng có thể sạc thiết bị iOS, trong khi vừa nghe nhạc và thư giãn ngay trên chiếc loa dock kiểu ghế sofa này.
Ghế đủ rộng cho 2 người ngồi. |
Nhà sản xuất Trophy Cuddler Audio ở Anh vừa thiết kế
một loại ghế đặc biệt kiêm loa và dock sạc iPhone/iPod cùng với cụm điều
khiển và các cổng kết nối.
Loa di động giá một triệu đồng cho laptop
Loa dạng thanh dài với kích thước nhỏ gọn trong khi chất âm mạnh mẽ và trong trẻo. MP250 được đánh giá cao trong tầm giá một triệu đồng.
Loa dạng thanh có chiều dài tương đương laptop 13 inch. |
Loa di động Edifier MP250 được thiết kế cho người sử
dụng laptop với dạng thanh dài có 3 góc cạnh.
Sony và Samsung thay đổi chính sách giá TV
Giống như cách của Apple, Sony và Samsung muốn các mẫu TV của họ phải có một mức giá chung thống nhất tại nhiều đại lý và cửa hàng bán lẻ.
5 máy tính bảng 7 inch tốt nhất
Galaxy Tab 7 inch phiên bản 2 "sánh đôi" cùng Kindle Fire ở phân khúc giá rẻ trong khi Tab 7.7 có kiểu dáng mỏng nhẹ, cấu hình tốt và có thể gọi điện.
Khi các thông tin về iPad mini vẫn chỉ nằm ở dạng "đồn
thổi", máy tính bảng kích thước 7 inch vẫn là "đấu trường" riêng của hệ
điều hành Android. Việc nhỏ gọn dễ dàng đem theo hay cân nặng nhẹ cầm
đỡ bị mỏi tay là những ưu điểm nổi trội của dòng máy này và cũng khiến
các nhà sản xuất không phải đối đầu trực tiếp với iPad của Apple.
'Đập hộp' LG Optimus 3D Max
Có cấu hình không khác nhiều so với thế hệ năm ngoái, nhưng Optimus 3D Max mang tới khả năng trình diễn hình ảnh ấn tượng hơn tuy vẫn còn nhiều hạn chế.
HTC và LG là những tên tuổi sớm ra mắt điện thoại 3D.
Trong khi thương hiệu Đài Loan vẫn chưa phát hành sản phẩm kế tiếp, thì
LG đã trình diễn model thứ hai. Optimus 3D Max có thiết kế nhẹ và mỏng
hơn bản gốc, máy cũng mang tới cảm giác cầm và sử dụng thuận tiện hơn.
Bên trong nhà máy sản xuất iPhone lớn nhất thế giới
Mỗi ngày nhà máy đặt tại thành phố Trịnh Châu (Trung Quốc) xuất xưởng tới 200.000 iPhone và chiếm tới 70% sản lượng iPhone sản xuất trên toàn thế giới.
Hà Giang tuyệt đẹp nhìn từ trên cao
Một chuyến đi với nhiều nỗi nhớ. Đi để cảm nhận được những vẻ đẹp tiềm ẩn, những khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đất nước. Hạnh phúc không phải là cảm giác tới đích, mà là trên từng chặng đường đi.
Thiên nhiên kỳ thú ở Đắk Lắk
Vườn quốc gia Chư Yang Sin thuộc tỉnh Đắk Lắk - nơi có hệ sinh thái rừng nguyên sinh, có vai trò quan trọng trong bảo tồn nguồn gene động thực vật quý hiếm.
Giận vợ, chồng đầu độc cả xóm
Liên tiếp những ngày qua, hàng chục gia đình ở thôn Núi Ngang, xã Ba Liên, huyện miền núi Ba Tơ (Quảng Ngãi) lo lắng vì phát hiện nhiều giếng nước bốc mùi thuốc trừ sâu.
Vợ chồng anh Phạm Văn Lía là một trong những gia đình đầu tiên phát hiện nước giếng có dấu hiệu bất thường: "Bơm nước vào bể xong, vợ tôi múc vo gạo nấu cơm thì phát hiện nước sủi bọt, bốc mùi hôi nồng nặc giống như thuốc trừ sâu".
Hai kẻ làm bằng dược sĩ giả bị
Sau hơn hai tháng điều tra, cơ quan chức năng đã đề
nghị truy tố Cao Băng Giang và Nguyễn Việt Anh về tội Làm giả tài liệu,
con dấu của cơ quan, tổ chức.
Ngày 26/5, cơ quan An ninh điều tra Công an Cần Thơ
cho biết, vừa kết thúc điều tra vụ làm bằng dược sĩ giả liên quan đến
Cao Băng Giang (40 tuổi, ngụ Quảng Bình) và Nguyễn Việt Anh
'Yêu râu xanh' hại đời thiếu nữ
Thấy cô gái 20 tuổi ở một mình trong chòi rẫy, Y Vih Long Ding đã lao vào bịt miệng và thực hiện hành vi hiếp dâm.
Ngày 27/5, Công an huyện Lắk (Đắk Lắk) cho biết, đang
củng cố hồ sơ để ra quyết đinh khởi tố Y Vih Long Ding (53 tuổi, trú xã
Đăk Liêng) về hành vi hiếp dâm.
Theo thông tin ban đầu, Huyền (20 tuổi) bị thiểu năng
trí tuệ.
Rượt đuổi mẹ, chém cảnh sát
Xin tiền mẹ để đi chơi nhưng không được, Vương cầm dao đập phá đồ đạc rồi chém cảnh sát.
Thảm sát gần 100 người ở Syria
Những màn dù bay đẹp tại Đà Nẵng
Nghĩa địa tàu biển lớn nhất thế giới
Cá mập chui vào 'rọ' ngư dân sát bờ biển
Rạng sáng nay, một con cá mập nặng hơn 80 kg đã chui
vào ngư cụ của ngư dân ở gần bãi tắm Hoàng Hậu thuộc khu du lịch Ghềnh
Ráng, Quy Nhơn.
Gỡ lưới ở khu vực ngoài bãi tắm Hoàng Hậu sáng nay,
ngư dân Nguyễn Văn Hải (36 tuổi) ở đường Phạm Ngũ Lão, TP Quy Nhơn, phát
hiện con cá mập chui vào rập - một loại ngư cụ dùng bắt cá, tôm hàng
ngày. Anh Hải phải gọi thêm hai người nữa hỗ trợ để đưa con cá mập vào
bờ.
10 nước hạnh phúc nhất thế giới
Quảng Trị: Đại hội Phật giáo....
Chiều nay 27-5-2012 tại Trung tâm Văn hoá Thông tinh
tỉnh Quảng Trị (P.5, TP.Đông Hà), Đại hội Đại biểu Phật giáo tỉnh Quảng Trị lần
thứ V (nhiệm kỳ 2012-2017) đã diễn ra phiên họp trù bị.
Phiên trù bị đặt dưới sự chủ tọa của HT.Thích Thiện Tấn, UV HĐTS, Trưởng Ban Trị sự THPG Quảng Trị, HT.Thích Trí Hải, Phó Ban Trị sự; HT.Thích
Chánh Huyền, Phó Ban Trị sự cùng sự tham dự đông đảo của chư tôn đức Tăng, Ni
và 1.040 Đại biểu đại diện các ban ngành, Ban đại diện Phật giáo các huyện, các
niệm Phật đường trong toàn tỉnh đã đến dự.khai từ nói lên lý do của phiên họp trù bị, những vấn đề liên quan đến Đại hội, đồng thời Hoà thượng cũng đã kêu gọi toàn thể Đại biểu trong phát huy cao tinh thần đoàn kết, và Lục hoà cộng trụ để cùng chung sức, chung lòng chung lo cho Đại hội Phật giáo tỉnh Quảng Trị diễn ra và thành tựu tốt đẹp.
Tiếp theo, toàn thể đại biểu cũng đã được nghe ban Thư ký và Kiểm soát Đại hội thông báo thủ tục Đại hội, kết quả thẩm tra tư cách đại biểu, giới thiệu các đoàn đại biểu, nội quy và chương trình làm việc, nghi lễ khai mạc phiên chính thức...
1040 đại biểu tham dự
Thay mặt Ban thư ký Đại hội, ĐH. Nguyễn Thường, Chánh Thư ký BTS
THPG Quảng Trị đã trình bày báo cáo tóm tắt kết quả hoạt động Phật sự nhiệm kỳ IV
(2007-2012), và dự kiến chương trình hoạt động Phật sự nhiệm kỳ V (2012-2017)
của Phật giáo tỉnh Quảng Trị. Chương trình phiên trù bị tiếp tục giải quyết những vấn đề liên quan đến những Phật sự tồn động và góp ý của Đại biểu về chương trình Đại hội cũng như chương trình dự kiến Phật sự 5 năm của nhiệm kỳ 2012-2017.
Các Đại biểu đã thảo luận những nội dung lên quan đến những công tác Phật sự nhiệm kỳ mới đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề văn hoá, giáo dục, hoằng pháp tại tỉnh nhà và ổn định các Niệm Phật đường trong việc thỉnh chư Tăng, Ni về đại phương trú trì làm Phật sự...
Dịp này, HT.Thích Thiện Tấn, Ủy viên HĐTS, Trưởng ban BTS Tỉnh hội trình bày trước Đại hội danh sách dự kiến nhân sự tân Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Trị nhiệm kỳ (2012-2017) gồm 56 vị.
Phiên trù bị kết thúc tốt đẹp sau phần đọc biên bản của Ban Thư ký Đại hội.
Sáng ngày mai phiên chính thức sẽ diễn ra cũng tại Hội trường này. Giác Ngộ Online sẽ cập nhật diễn tiến của Đại hội đến quý độc giả.
Hội trường Trung tâm văn hoá thông tin tỉnh Quảng Trị
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)