HT. Thích Thiện Tâm - Phó chủ tịch Hội Hữu Nghị Việt Nam – Thái Lan TP. Hồ Chí Minh
Vào năm 1781, một đoàn người Việt đến Thái Lan được ghi nhận là nhóm người Việt đông đảo nhất do Vua Gia Long cùng đoàn tùy tùng hướng dẫn, đã đến Thái Lan lánh nạn chính trị.
Vào năm 1781, một đoàn người Việt đến Thái Lan được ghi nhận là nhóm người Việt đông đảo nhất do Vua Gia Long cùng đoàn tùy tùng hướng dẫn, đã đến Thái Lan lánh nạn chính trị.
Dân tộc của một quốc gia luôn gắn bó với quê hương đất tổ, khi phải
ra đi vì lý do kinh tế, buôn bán làm ăn, hay vì lý do chính trị, thay
đổi triều đại, hay bất cứ một lý do nào khác đều hướng về quê cũ với
niềm hoài vọng cố hương.
Vào năm 1781, một đoàn người Việt đến Thái Lan được ghi nhận là
nhóm người Việt đông đảo nhất do Vua Gia Long cùng đoàn tùy tùng hướng
dẫn, đã đến Thái Lan lánh nạn chính trị, số đông dân chúng trong đoàn đã
ở lại hòa nhập với một số người Việt sang Thái vì nhiều lý do khác trở
thành cộng đồng Việt kiều trên đất Thái, luôn hướng về Việt Nam, mang
theo Đạo Phật Việt Nam, đạo hiếu nghĩa thờ cúng ông bà, xây dựng những
ngôi chùa mang hình ảnh ngôi chùa làng thân thương trên đất Thái.
Cũng chính cộng đồng Việt kiều trên đất Thái đã hỗ trợ người Việt
Nam, tham gia đấu tranh vì tổ quốc thời nhà Nguyễn, thời cách mạng tháng
8-1945, và đặc biệt ưu ái nuôi dấu, cưu mang, tạo điều kiện cho Bác Hồ
tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lê chuẩn bị huấn luyện
cán bộ hình thành tổ chức cách mạng Việt Nam trên đất Thái.
Như vậy, khi nói về Đạo Phật trong công đồng Việt Kiều tại Thái Lan phải nói đến ba dấu ấn quan trọng:
- (1) Đạo Phật trong Đoàn người Việt theo Vua Gia Long sang Thái Lan,
- (2) Dấu ấn văn hóa Phật Giáo Việt qua các ngôi tự viện, cách thờ cúng, dòng tu Phật giáo Việt Nam, Annamnikaya, Việt tông
- (3) sự kiện Bác Hồ được Phật giáo Việt Nam tại Thái cưu mang trong thời kháng chiến.
Đạo Phật trong đoàn người theo vua Gia long sang Thái Lan
Trong đoàn người Việt đi với vua Gia Long, có nhiều người theo đạo
Phật. Đối với người Việt theo đạo Phật, ngôi chùa trong tâm trí họ là
hình ảnh chùa làng êm ả, thanh tịnh, là hình ảnh trong tâm cảm của mỗi
người về lý tưởng con đường thoát khổ và tình yêu quê hương ( Mái chùa
che chở hồn dân tộc- Nếp sống muôn đời của tổ tông ) hai ngôi chùa do
cộng đồng Việt kiều thành lập đầu tiên vào khoảng 1776. Sau đó, hai ngôi
chùa kế tiếp được xây dựng khi vua Gia Long còn trên đất Thái, vào
khoảng 1782, triều đại Rama. Vua Yodfah chulaloke- Rama I (1782-1809) đã
ban sắc đặt tên cho dòng Phật giáo của người Việt trên đất Thái là
Annamnikaya. Annamnikaya có từ thời đó vẫn mãi lưu truyền và phát triển
cho đến hôm nay (Vua Rama IX) và mai sau.
Theo sử liệu người Thái gọi vua Gia Long với tên gọi vừa kính nể
vừa thân thiện Ong Ziang –Sue (Ông Thiên Tử). Người Việt trong đoàn tháp
tùng vua Gia Long đứng ra xây chùa Việt đầu tiên trên đất Thái là Ong
Ziang-Zun (có người nói đó là Tôn Thất Thuyết).
Dấu ấn văn hóa Việt qua các ngôi tự viện Việt Tông Annamnikaya
Một trong hai ngôi chùa đầu tiên của cộng đồng Việt kiều được xây
dựng trên đất Thái là chùa Hội khánh Wat Mongkornsamagom tại Bangkok (có
nơi gọi là Mongalasamagom).
Từ đó, nhiều ngôi chùa mang hình ảnh ngôi chùa Việt Nam trên đất Thái được xây dựng, tính đến nay đã có 15 ngôi chùa.
Ở Thủ đô Bangkok có 7 ngôi: Wat Kusolsamakorn (Chùa Phổ
Phước),Wat Ananamnikayaram ( Chùa Quảng phước), Wat Lokanuckor ( Chùa Từ
Tế), Wat Samananamborihan ( Chùa Cảnh Phước), Wat Upairadchabamrung (
Chùa Khánh Vân), Wat Chaiyapummikaram ( Chùa Tỉ Ngạn), Wat
Mongkornsamakom ( Chùa Hội Khánh) .
Ở Miền nam Thái Lan có 7 ngôi chùa : Wat Thamkhounoy (Chùa Khánh Thọ), Wat Thawornwararam (Chùa Long Sơn),
Wat Khednabunyram, Wat Mahayankanchanamadrabamrung, Wat Annamnikaya
(Chùa Tam Bảo Công), Wat Upaipatikaram ( Chùa Khánh Thọ), Wat
Thawornwararam Hadyai Và 01 chùa ở Đông bắc Thái Lan : Wat
Sunthonpradid ( Chùa Khánh An ).
Theo một thông tin khác cho biết có thể có 18-19 chùa đã xây
dựng và 15 chùa đang xây dựng. Hầu hết các chùa Việt trên đất Thái đều
được vua Thái sắc phong. Hiện tổng số các tu sỹ trong Annamnikaya Việt
tông vào khoảng 500 vị. Văn phòng của Việt tông đóng ở Học Viện Tăng Già
Phổ Phước, do Tăng trưởng Annamnikaya là trụ trì chùa Phổ Phước điều
hành. Annamnikaya luôn là chỗ dựa tinh thần của cộng đồng người Thái gốc
Việt từ hơn 200 năm qua. Đặc biệt kiến trúc chùa có hình mái chùa cong,
màu ngói đỏ, có hình rồng (khác hình rồng Thái). Các bảng hiệu, hoành
phi, trướng liễng, kinh sách còn viết chữ nho, bên cạnh phiên âm tiếng
Thái. Riêng chùa Hội Khánh có bảng tiếng Việt. Cách bài trí bên trong
phỏng theo chùa Việt ở quê nhà, khác với chùa Thái, theo kiểu Tiền Phật
Hậu Thánh, và thờ nhiều tượng Phật và các vị Bồ tát, có nhà tổ thờ cá vị
tổ sư tiền nhiệm. Mỗi năm có 2 lễ lớn là lễ đầu năm âm lịch tết Nguyên
Đán và lễ hội ngày rằm tháng bảy Vu Lan báo hiếu. Cộng đồng Việt kiều
Thái ngoài việc thờ Phật, còn thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua
đời.
Chùa Việt trên đất Thái thuộc Annamnikaya có những nét phải
theo Luật quốc gia dành cho tu sỹ Phật Giáo Thái Lan. Chùa không có
điệu, chú tiểu, chỉ có sa di dưới 20 tuổi, và tỳ kheo nếu tu sỹ trên 20
tuổi. Các sa di được đào tạo theo chương trình của Bộ Giáo dục Thái. Các
sa di sau khi tốt nghiệp học viện được tiếp tục học trong các trường
Trung cấp Phật học hoặc đại học, nếu đủ tuổi sẽ được thọ cụ túc giới,
nếu không tiếp tục làm tu sỹ sẽ trở về gia đình làm thiện tín. Các tu
sỹ, vào mỗi buổi sáng sớm phải quấn y đi khất thực như các tu sỹ Phật
giáo Thái Lan. Do số tu sỹ Việt tông giới hạn nên việc các ngôi chùa tổ
chức cho các tu sỹ giảng pháp, làm công tác xã hội có giới hạn.
Năm 2002, Trường đại học Đại Trí ra đời, tên đầy đủ là trường
đại học Đại Trí Văn Thù, của Việt tông Annamnikaya tổ chức chiêu sinh
giảng dạy giáo lý Bắc truyền
Nhìn chung hệ thống chùa Việt, người Thái gọi là Wat Yuon, thuộc
Việt tông , được tạo dựng trang nghiêm thanh tịnh, luôn tấn tu và động
viên người con Phật Việt kiều xa quê an tâm làm ăn sinh sống trên đất
người, nhận đất người làm quê hương thứ hai. Sự tin tưởng của cộng đồng
Việt kiều Thái được tăng trưởng và vững vàng một phần lớn nhờ ân đức của
chư tôn đức, tăng chúng đang hành trì ở các chùa Việt tông. Trong các
vị này phải kể đến Hòa Thượng Thích Kính Chiếu, tăng trưởng Annamnikaya,
đã trực tiếp hoặc hỗ trợ xây dựng các ngôi chùa Việt, lập trường học
giáo dục tăng ni từ tiểu học đến đại học… Hòa thượng Bình Lương trụ trì
chùa Việt Tông Từ Tế là người đã cưu mang Bác Hồ trong suốt thời gian từ
tháng 7 đến tháng 11/1929 . Hòa thượng Bình Lương còn được cộng đồng
người Việt ở Thái gọi là cụ sư Ba. Ông sinh năm 1882 tại xã Sơn Bằng,
huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Tên thật của nhà sư là Phan Ngọc Đạt…
Bác Hồ được Phật giáo Việt Nam tại Thái cưu mang trong thời kháng chiến
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, tháng 7-1928, Bác Hồ từ Đức
sang Thái Lan tìm đường giải phóng dân tộc, lấy tên Thầu Chín, hoạt động
trong phong trào Việt kiều yêu nước ở các tỉnh Udon Thaini, Phi Chit,
Sakon Nakhon... trước khi về ở tại bản Na- Chock của tỉnh Nakhon
Phanom. Hiện nay có di tích Nhà Bác Hồ ở bản Na-Chok, tỉnh Nakhon Phanom.
Bác Hồ đã đi khắp bản làng có Việt kiều để mở lớp huấn luyện,
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, khơi dậy lòng yêu nước trong Việt
kiều, xây dựng được đội ngũ quần chúng trung kiên của cách mạng. Nhiều
cán bộ cốt cán đã trở về tham gia cách mạng tháng 8-1945. Trong đội
quân liên minh Việt - Lào chống thực dân Pháp.
Năm 1929, Thực dân Pháp ra lệnh cho mật thám Pháp phối hợp với cảnh sát Thái quyết truy lùng ráo riết tìm bắt Bác hồ tại Thái Lan. Để có thể tiếp tục sự nghiệp cách mạng, Bác ẩn mình trong một ngôi chùa trên đất bạn.
Theo hồi ký bà Đặng Quỳnh Anh (một Việt Kiều Thái Lan) viết, lúc ấy,
Bác từ U đon đi bộ 70km đến huyện Sa Vàng (tỉnh Sa Côn) mất 1 ngày. Sau
đó, Bác từ Sa Côn lên Băng Kok (cách đó hơn 600km) và vào chùa Từ Tế vào
thời gian trên. Bác Hồ phải cạo đầu, mặc áo cà sa giả làm sư và ẩn dật
trong ngôi chùa này. Sau thời gian trên, Bác hồ mới rời Thái Lan sang
Thượng Hải, rồi sang Hồng Kông.(Trần Dân Tiên (1975),“Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” NXB Sự Thật ) .
Sự việc trên cũng được minh chứng bởi hình ảnh Bác mặc áo cà sa
vàng. Bức ảnh này từng được Hội Việt kiều Thái Lan tại Uông Bí tặng cho
Hội Việt kiều Hà Nội. Tại khu lưu niệm về Hồ Chí Minh tại U đon Tha Ni
của Thái Lan cũng có treo một bức ảnh Bác Hồ trong trang phục áo cà sa
tương tự.
Hơn một năm hoạt động ở Thái Lan, cuối năm ấy, Bác lại sang Trung
Quốc, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930, tại Cửu Long,
Hương Cảng. Một tháng sau Bác trở lại Thái Lan, xây dựng tổ chức đảng
trong Việt kiều.
Sự kiện trên cũng làm tăng thêm tình nồng ấm giữa cộng đồng Việt kiều Thái theo đạo Phật với người Việt yêu nước ở quê nhà.
Kết Luận
Để có một cái nhìn chung cuộc về Đạo Phật trong cộng đồng Việt Kiều
Thái, không ai không nhận thấy, Phật giáo Việt Nam của người Việt di cư
sang Thái hoàn toàn hội nhập được với nếp sống sinh hoạt tôn giáo, tập
tục của người Thai Lan từ lâu đời. Các vua Thái,Vua Sãi của Thái
đều thừa nhận Việt tông Annamnikaya. Việt tông qua hơn 200 năm đã xây
dựng và phát triển tông phái hợp với thời đại, tuy còn nhiều bất cập số
sư sãi chưa đáp ứng bao quát hết nhu cầu phục vụ tâm linh cho người Phật
tử Việt kiều Thái trong tu học giáo lý Phật đà.
Đặc biệt, Đạo Phật trong cộng đồng Việt kiều Thái, trong lịch sử
phát triển của mình đã không ngừng nêu cao tình đoàn kết, thương nhớ tổ
quốc, thương yêu giúp đỡ người yêu nước, đóng góp công sức tích cực
trong cách mạng kháng chiến vì dân tộc và an ninh quốc gia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét