Thứ nhất Định tâm thiền; Thứ
hai Chế tâm thiền; Thứ ba Thể chân thiền; Thứ tư Phương tiện tùy duyên thiền;
Thứ năm Tức nhị biên phân biệt thiền.
Trụ tâm chuyên chú vào một đối tượng gọi
là Định tâm thiền. Như hành giả lúc niệm
Phật khởi quán hào quang và sắc tướng của Phật, tâm thức an định sâu lắng gọi
là Định tâm thiền.
Khi tâm được chuyên chú vào trạng thái
định nhưng vẫn chưa dứt sạch thói quen vọng động và tán loạn, nay cần phải dùng
phương pháp tu quán để nhiếp phục. Do đó, phải dùng phương tiện duyên tâm vào
kim tướng của Phật để dứt trừ mọi vọng tưởng gọi là Chế tâm thiền.
Lại nữa, tuy đã điều phục được tâm, trụ
tâm chuyên chú vào một đối tượng, nhưng đó chẳng phải lý quán, nó thuộc về sự
tu hành. Cần phải thể nhập pháp quán không, khởi niệm tự hỏi ai chế tâm? Tức là
thấy rõ không có cái ta, không có chủ thể điều phục tâm thì sẽ không có đối tượng
Phật để quán và không có cái niệm vọng xuất hiện. Đây gọi là Thể chân thiền.
Tuy gọi là trạng thái Thể chân thiền,
nhưng tâm thức vẫn còn ngưng trệ vào trạng thái không, vô số danh tướng chưa thể
thấu rõ. Nay lấy cái vô sở đắc làm
phương tiện, từ trạng thái tâm không nhập pháp giả
quán để soi xét mọi hiện tượng, không bị mê lầm do chấp cái tâm Không. Đây gọi là Phương tiện thiền.
Lại nữa, trạng thái Thể chân thiền và
Phương tiện thiền đều chưa lìa hết tâm chấp hai bên, nay quán trạng thái tịnh
tâm và động tâm vốn vô tướng mạo, vắng bặt ngôn ngữ, xa rời tư tưởng và khái niệm.
Đây gọi là Tức nhị biên thiền. Từ cạn cho đến sâu, phân biệt như vậy cho dễ hiểu,
thực chất quán sát viên mãn thấu rõ các pháp vốn như vậy, không có phân biệt.
Luận về năm môn niệm Phật:
Xưng danh niệm Phật tam muội
vãng sanh môn.
Quán
tướng diệt tội niệm Phật tam muội môn.
Chư cảnh duy tâm niệm Phật tam muội
môn.
Siêu
việt tâm cảnh niệm Phật tam muội môn.
Tánh
khởi viên dung niệm Phật tam muội môn.
Chư Phật đại từ, đại bi, thường thuyết
pháp giáo hóa chúng sanh, chư Bồ tát dùng nhiều phương pháp giải thích ý
nghĩa
pháp đó. Các ngài dùng vô số phương tiện khai mở Trí tuệ Bát nhã, lý do
nào mà
nói pháp Bát nhã ba la mật? Phật dạy:
“Vì muốn chư Bồ tát tăng trưởng pháp niệm Phật tam muội”. Lý do nào mà
khuyên niệm Phật? Phật dạy: “Nếu có người niệm Phật, nên biết
người này cùng với Văn Thù Sư Lợi không khác”. Vì sao như vậy? Vì pháp
niệm Phật
tam muội này phát sanh các đại tam muội của chư Phật, như Du hí tam
muội, Thủ
lăng nghiêm tam muội và nhiều món tam muội khác. Từ tam muội này mà thể
nhập
sâu xa vào trong biển Phật pháp, đầy đủ các phương tiện hiển bày. Nếu
dùng một
câu niệm Phật mà tu niệm, thẩm định rằng trong đó đã bao gồm tất cả pháp
môn. Vì
sao như vậy? Vì tất cả hiền thánh từ niệm Phật mà sanh, tất cả các món
trí tuệ
từ niệm Phật mà có. Cho đến hàng Thập tín Bồ tát và Tam hiền Bồ tát đều
không
xa rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng; không rời xa niệm Nhất thiết
chủng trí.
Từ sơ địa Bồ tát cho đến bát địa, cửu địa, thập địa cũng không xa rời
niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Nhất thiết chủng trí.
Nhưng do vì trí tuệ sai biệt mà lập các
danh tướng, chúng sanh mê danh, vọng sanh kiến giải sai khác, đọa lạc vào cảnh
ma giới. Có người không hiểu rõ tính chất
của giáo lý này một cách tường tận nên xem thường pháp niệm danh hiệu Phật, tự
hiểu theo quan điểm sai lạc nên không nắm bắt được ý nghĩa thù thắng trong
đó. Nay nhân vì thương xót cho tình cảnh
đó mà tôi trình bày ý nghĩa thâm sâu của pháp niệm Phật. Luận về nhân của người tu đạo, không xa rời
Tam hiền thập thánh. Nếu luận về quả chứng ngộ tức là quả vị Phật Như Lai. Người
tu đạo thường tri ân và niệm mười phương tất cả chư Phật; Chứng đắc quả vị giải
thoát phải chứng trú trạng thái thanh tịnh đệ nhất thiền. Nên biết rằng, trạng
thái thiền đó muốn thể nhập vào cảnh giới chứng ngộ rốt ráo, không pháp môn nào
hơn pháp niệm Phật. Nhưng than ôi! Kẻ hậu thế chưa từng thể nghiệm trong pháp
hành, mất đi lợi ích to lớn của pháp môn này. Từ khả năng thấy biết hạn hẹp đó
nên mất phương hướng của sự tu học, thật đáng xót thương!
Lại nữa, chư Phật vì sự giải khổ cho
chúng sanh mà khuyên niệm danh hiệu Phật, nguyện sanh cực lạc quốc, nên mới dạy
pháp niệm Phật vãng sanh. Chúng sanh tuy hoan hỉ Phật thân, nhưng nghiệp lực
sâu dày nên không thấy, nên mới dạy pháp quán tướng diệt trừ tội chướng. Chúng
sanh mê chấp cảnh trần, nên mới dạy pháp quán các cảnh do tâm tạo. Chúng sanh
chấp các pháp thật có thật không, lạc vào hai bên nên dạy pháp quán xả ly tâm
và cảnh. Chúng sanh vui đắm sâu vào cảnh không tịch của thiền định, chấp thủ trạng
thái định, không rõ thật pháp, nên mới dạy pháp Tánh khởi Viên thông.
Đức Thế Tôn là bậc thầy cao quý! Bậc dẹp
trừ tất cả ngã tướng, bậc khai mở pháp môn niệm Phật vi diệu, con đường thẳng tới
giác ngộ trọn vẹn. Duy chỉ có bậc thông hiểu kinh luận, đầy đủ kinh nghiệm tu
chứng, định tuệ viên dung, kiểm chứng pháp môn này hoàn toàn tương ưng với các
kinh luận liễu nghĩa Đại thừa, đó là sự thật. Nên biết pháp trì danh niệm hiệu
Phật thâm sâu khó nghĩ bàn, một câu niệm Phật mà chứa đủ các pháp môn, niềm tin
thành tựu một khi đã y vào giáo nghĩa Tịnh độ mà thực hành.
Từ nghĩa lý năm môn niệm Phật mà xét,
có từng bước làm phương tiện tu học.
Hành giả, lúc niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, nguyện sanh cõi Cực lạc, còn gọi
là pháp môn xưng danh hiệu Phật nguyện vãng sanh.
Hành giả quán tưởng thân Phật, chuyên
chú không tán loạn, thì sẽ thấy tướng Phật quang minh rực rở chiếu soi hành giả,
lúc bấy giờ tất cả tội chướng đều được tiêu trừ, gọi là pháp môn quán tướng Phật
diệt tội.
Lại quán tướng Phật này là từ tâm khởi
không ngoài cảnh khác, gọi là pháp môn quán các cảnh do tâm sanh.
Lại quán tâm này, không có thực tướng mạo
nắm bắt, gọi là pháp môn quán xa rời tâm và cảnh.
Lúc bấy giờ, hành giả hướng đến trạng
thái thiền định sâu lắng, buông xả tất cả tâm thức và ý thức, nhập Niết bàn,
nương vào năng lực mười phương chư Phật gia trì và hộ niệm hưng khởi trí tuệ. Hành giả đang ở trong nhất niệm, tịnh Phật quốc
độ và thành tựu chúng sanh. Công đức tu học vốn có qua bốn giai đoạn trước trăm
ngàn vạn phần không bằng một phần giai đoạn Tánh khởi viên thông này. Vì sao
như vậy, không còn luận ở công sức mà có diệu dụng cùng khắp, nghĩa là từ một
thân mà biến thành vô lượng thân. Hành giả tùy duyên hành đạo, được Phật hộ niệm
thấu rõ tận cùng nghĩa lý Phật pháp, thành tựu mười hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ
tát. Bổn nguyện như vậy, thể nghiệm pháp vốn như vậy, tức gọi là pháp tánh khởi
khởi viên thông.
Trên đây đã trình bày xong năm phương
tiện của pháp môn niệm Phật tam muội.
***
Hỏi: Như thế nào gọi là niệm Phật
Tam muội?
Đáp: Kinh Đại Bửu Tích, chương
116 có dạy rằng: Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế Tôn, tu như thế nào để mau chứng đắc quả vị vô thượng chánh
đẳng chánh giác?. Phật dạy: Nhất hạnh
tam muội. Người nam, người nữ nào tu pháp Tam muội này thì mau chứng đắc quả vị
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Ngài Văn Thù sư lợi thưa hỏi tiếp rằng:
Thế nào gọi là niệm Phật tam muội? Phật dạy: Pháp giới một tướng, thể nhập vào
pháp giới, gọi là nhất hạnh tam muội. Nếu có người nam, người nữ nào muốn nhập
vào pháp nhất hạnh tam muội, nên khéo nghe pháp Bát nhã ba la mật, như pháp mà
tu hành, sẽ nhập vào pháp nhất hạnh tam muội.
Như tâm duyên quán pháp giới, bất thối, bất hoại, không nghĩ bàn, không
chướng ngại, không tướng trạng.
Người nam, người nữ đó, muốn nhập vào
Tam muội này, ở tại một nơi thanh nhàn, xả bỏ tâm ý ô nhiễm, không giữ tướng trạng
trong tâm, chuyên tâm một vị Phật mà xưng danh hiệu. Tùy theo phương vị, ngồi
ngay thẳng đoan nghiêm, nhất tâm xưng niệm tương tục danh hiệu Phật, tức là
trong nhất tâm niệm có thể thấy ba đời tất cả chư Phật. Vì sao như vậy? Niệm
công đức vô lượng vô biên của của một vị Phật cũng đồng với niệm công đức biện
tài vô lượng của vô lượng chư Phật. Nhập
nhất hạnh tam muội này thì thông suốt rõ ràng vô số các cõi nước chư Phật vốn
không có tướng sai biệt. Văn này được xác chứng!
Hỏi: Nhiều người họa hình tượng Phật để
quán tưởng và chiêm bái, có đúng với Thánh giáo chăng?
Đáp: Kinh Đại Bửu Tích chương 89 có dạy: Lúc
bấy giờ Thường Tinh Tấn Bồ tát muốn họa hình tượng Phật, đi vào chốn núi rừng
thâm sâu vắng lặng, không có bóng người qua lại, xa rời nơi có cầm thú, để
chuyên tâm làm việc này. Ngài lấy cỏ làm bồ đoàn mà ngồi trước bức họa tượng, đoan
tâm chánh niệm quán hình tượng Phật. Quán sát xong rồi, khởi niệm như vầy: Như
lai hi hữu vi diệu, hình tượng còn đoan nghiêm vi diệu như thế, huống gì là
pháp thân thực của Đức Như Lai!
Lại khởi niệm như sau: Làm sao mà quán
Phật. Lúc bấy giờ, Lâm Thần biết rõ tâm niệm của Bồ tát Thường Tinh Tấn, liền bạch
Bồ tát rằng: Này thiện nam tử! Có phải ông đang nghĩ cách như thế nào để quán
Phật?; Và bảo rằng: Nếu muốn quán Phật, nên quán hình tượng Phật, quán hình tượng
này như quán Phật không khác, gọi là quán Phật, quán Phật như vậy, gọi là sự
quán tưởng tuyệt hảo nhất.
Lúc bấy giờ Đại Tinh Tấn Bồ tát khởi niệm
như sau: Quán tưởng hình tượng Phật, chẳng phải giác, chẳng phải tri, tất cả pháp
đều như vậy, như là văn tự, văn tự như thế, bản tính không tịch, vốn không tướng
nắm bắt, thân tướng của Như Lai cũng lại như thế. Hình tượng chẳng phải chứng,
chẳng phải quả, chẳng phải đắc, chẳng phải trụ, chẳng phải đi, chẳng phải đến,
chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng phải tịnh, chẳng phải sắc, chẳng phải tham, sân
và si.
Hình tượng chẳng phải ấm, giới, nhập, chẳng
phải đầu tiên, chẳng phải giữa, chẳng phải sau. Tất cả các pháp cũng là như vậy,
thân tướng Như Lai cũng lại như vậy. Như
hình tượng này, chẳng phải giác, chẳng phải tri, chẳng phải tạo tác, tất cả chư
Phật cũng lại như thế, cho đến lục căn cũng lại như thế. Bồ tát quán thân Như Lai như vậy, ngồi kiết
già, ở trong tam thất nhật (21 ngày) thành tựu ngũ thông, cúng dường chư Phật. Chư thiên
cũng rãi hoa cúng dường chư Phật. Từ công đức tán thán chư Phật, trong pháp hội
có hai vạn người chứng trú vào đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô số người
trụ trong công đức của hàng Nhị thừa. Đại
Tinh Tấn, chính là đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã từng như vậy. Văn này đã rõ
ràng.
Ước theo Tứ giáo mà luận, phàm tâm không
thể tự độc lập mà sanh, tất phải nương vào giả duyên mà hiện khởi. Hành giả lúc
niệm Phật, ý tưởng làm nhân; hào quang của Như Lai là duyên, cũng gọi là pháp
trần, thuộc đối tượng của ý căn. Niệm khởi lên, tức là pháp sanh khởi, quán căn
trần, năng niệm và sở niệm này, cả ba tướng đều lay động, sanh diệt liên tục,
niệm niệm không dừng nghỉ. Tất cả là không, tức thuộc quan điểm của tiểu thừa tạng
giáo.
Tức là tâm quán niệm Phật khởi, hay phát
khởi cái đối tượng, nó vốn là không, do vọng tâm khởi, tâm thật không khởi, niệm
khởi vốn không tự tánh, thể nó vốn là không.
Quán tướng Phật, như hình tượng phản ánh trong tấm kính, như hoa đốm giữa
hư không, không có Phật, không có niệm, tức là thuộc quan điểm của Đại thừa
thông giáo.
Tức tâm quán niệm Phật khởi, tức là pháp
giả danh, từ cạn đến sâu thông suốt, vô lượng danh tướng, thấy rõ như nắm trong
lòng bàn tay; Thấu rõ tâm này là Như Lai tạng, đoạn trừ hạt giống mê hoặc có từ
nhiều kiếp mới chứng chân thường. Xa rời chấp ngã nhị biên, vô Phật và vô niệm,
đó là quan điểm của Đại thừa biệt giáo.
Tức tâm quán niệm Phật khởi, tức không,
tức giả, tức trung. Hoặc là căn hoặc là trần đều là pháp giới; Một niệm khởi
lên duyên cõi nước chư Phật; Nhất niệm chiếu sáng lục đạo chúng sanh. Không có trước hay sau, liễu ngộ tánh giác
xưa nay là như vậy. Như người đại phước
giữ đá hóa ngọc, không cần xả niệm, chẳng cầu ly niệm, nhị biên tức trung đạo,
vô Phật vô niệm, là quan điểm của Đại thừa viên giáo; Kinh Anh Lạc nói rõ sự chứng
ngộ của Như Lai là ý nghĩa này vậy.
Tỳ kheo Thích Đức Trí dịch.
Ngũ phương tiện niệm Phật môn,
1 quyển
Thiên Thai Trí Giả Đại Sư biên
soạn nguyên bản Hán
(Đại chính tân tu đại tạng kinh
Vol. 47, No. 1962)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét