Không như các tôn giáo khác có thể có những cấm điều hay định chế được thiết lập sẵn dựa theo chủ quan của vị giáo chủ, mọi định chế của Phật giáo đều xuất hiện sau khi Tăng đoàn đã được thành lập.
Đức Phật vốn là người tự mình đạt tới giác ngộ giải thoát, sau đó, đã
vì lòng từ mà trao truyền trí tuệ của Ngài cho muôn loài. Vì không có ý
định xây dựng một tôn giáo để đóng vai giáo chủ, Đức Phật hoàn toàn
không có thiên kiến chủ quan trong việc thiết lập nghi thức sinh hoạt,
chỉ căn cứ vào nhu cầu thực tiễn của Tăng đoàn mà ấn định luật cho Tăng
chúng. Rất nhiều trường hợp, chính cộng đồng chấp nhận Tăng đoàn của Đức
Phật đã có những đóng góp cho việc xây dựng truyền thống sinh hoạt của
Tăng đoàn. Truyên thống an cư là một minh chứng cụ thể nhất.
Dưới thời Đức Phật, không khí truy cầu chân lý ở Ấn Độ hết sức nhiệt
náo. Nhiều giáo đoàn rao giảng các luận thuyết khác nhau về sự hình
thành vũ trụ, về bản chất của cuộc sống… Nhiều người từ bỏ đời sống gia
đình tham gia sinh hoạt cúa các giáo đoàn, sống cuộc sống khổ hạnh hay
truy lạc tùy theo niềm tin của mình với mong ước thực hiện chân lý giải
thoát. Họ đi khắp xứ Ấn Độ để truyền giáo và thu phục tín đồ. Tuy nhiên,
vào mùa mưa, họ có thể quy tụ lại với nhau ở một số trú xứ nhất định
hoặc giải tán chờ đến lúc tập họp lại. Mặt khác, trong thời gian liên
kết với các giáo đoàn loại này, vị tu sĩ vẫn có những liên hệ với gia
đình. Tăng đoàn của Đức Phật hoàn toàn khác. Tỳ-kheo thuộc Tăng đoàn của
Đức Phật hoàn toàn sống theo hạnh viễn ly, lấy trung đạo làm phương
trâm, thực hiện việc khất thực để duy trì thọ mạng, tài sản chỉ có ba y
một bát, buổi sáng vào làng khất thực, trước giờ ngọ tìm chổ thọ thực,
thời gian còn lại thực hành quán niệm hay thiền định để hiều rõ lời Phật
dạy và chứng đạt chân lý. Cuối cùng, các Tỳ-kheo nghỉ chân dưới một gốc
cây có tán lá, một tảng đá, hay một hang động, gần nơi có nước, không
quá xa làng mạc, ở chỗ tránh được rủi ro về ác thú, cướp bóc… Đặc biệt,
các Tỳ-kheo không được ở quá ba đêm tại cùng một chổ. Đây là biện pháp
nhằm triệt để tiêu diệt tâm sở hữu, vì ngay cả chỗ nghỉ chân giữa nơi
khoáng dã cũng không phải là “gốc cây, tảng đá, hay hang động của tôi”
để có thể củng cố quan niệm ngã sở. Như thế, trong giai đoạn đầu, Tăng
đoàn của Đức Phật hoàn toàn không có trú xứ nhất định. Vào mùa mưa, các
Tỳ kheo cũng vào làng mạc khất thực và điều này có nhiều bất tiện. Mùa
mưa là lúc cây cối đâm chồi nảy lộc, trời mưa làm nước tràn ngập mặt đất
ảnh hưởng đến hang ổ của các loài bò sát, côn trùng. Khi đi lại trong
mùa mưa, các Tỳ-kheo làm ảnh hưởng đến sự phát triển của cây cối, có thể
dẫm dạp lên côn trùng hay bò sát nhỏ mà không biết, lại có thể vì các
loài nọc độc tấn công; ngoài ra thói quen ngủ nơi khoáng dã của các
Tỳ-kheo không thực hiện được. So sánh với việc an trú trong mùa mưa của
các giáo đoàn khác, dân chúng chỉ trích việc đi lại trong mùa mưa của
Tăng đoàn Đức Phật. Công nhận sự chỉ trích đó là chính đáng, Đức Phật
thiết lập quy định cho các Tỳ-kheo được tìm chổ trú ngụ trong ba tháng
mùa mưa. Điều khác biệt với những giáo đoàn khác nằm ở chổ, đệ tử Phật
an cư ba tháng không chỉ để tránh đi lại trong mùa mưa, mà còn tận dụng
thời gian ở yên một chổ để thực hiện việc tu học và giáo hóa một cách
tích cực.
Thực ra, từ chổ hằng ngày các Tỳ-kheo đi chung với nhau theo từng nhóm
nhỏ vài ba người vào làng mạc khất thực trong buổi sáng rồi đến trước
giờ ngọ tìm một chổ nghỉ ngơi, thọ thực, kinh hành, thiền định, quán
tưởng, tu học… đến chổ tập trung một số khá đông Tỳ-kheo vào một nơi
sống chung với nhau trong suốt ba tháng mùa mưa, đáng lẽ đã đòi hỏi Tăng
đoàn của Đức Phật phải có sự chuẩn bị và đặt ra cho Tăng đoàn rất nhiều
việc phải giải quyết. Tuy nhiên, Tăng đoàn của Đức Phật đã có những cơ
duyên thuận lợi. Vào năm thứ ba kể từ khi Đức Phật chứng đạo, Tăng đoàn
đã quy tụ cả ngàn Tỳ-kheo. Bấy giờ Đức Phật và chúng đệ tử đi lên phía
Bắc đến xứ Ma-kiệt-đà trú ở một ngọn đồi ngoài thành Vương Xá. Sự xuất
hiện của một đoàn Ty-kheo đông đảo sinh hoạt có quy củ đã khiến Tăng
đoàn giành được sự ngưỡng mộ của dân chúng. Tiếng tăm của Tăng đoàn đã
vang đến tai vị vương chủ xứ Ma-kiệt-đà là vua Tần-bà-sa-la. Vị vua này
đã từng gặp Đức Phật khi Ngài còn tu khổ hạnh. Biết người tu khổ hạnh đó
chính là thái tử Tất-đạt-đa dòng Thích-ca ở thành Ca-tỳ-la-vệ. Nhà vua
thỉnh Đức PHật cùng Tăng đoàn vào thành nhận sự cúng dường và được nghe
Đức Phật thuyết pháp. Hoàn toàn kính phục và mến mộ trí tuệ và uy đức
của Phật, nhà vua Tần-bà-sa-la xin quy y và dâng cúng khu rừng trúc làm
trú xứ cho Tăng đoàn. Nhà vua cho xây tịnh xá và cung cấp đầy đủ tiện
nghi để Đức Phật và chúng Tỳ-kheo có nơi an trú, nơi đó gọi là tịnh xá
Trúc Lâm. Khoảng tháng 4, tháng 5 âm lịch năm ấy ( lịch Ấn Độ gọi là
tháng Vesakha). Đức Phật và chúng Tỳ-kheo đã thực hiện mùa an cư đầu
tiên của Tăng đoàn tại đó.
Sau mùa an cư này, Đức Phật cùng chúng đệ tử vượt sông Hằng trở lại
thành Ca-tỳ-la-vệ. Bấy giờ vua Tịnh Phạn là phụ thân của Đức Phật cùng
toàn thể hoàng gia đều xin quy y với Phật làm đệ tử tại gia ; ngoài ra
một số lớn các vị hoàng tử đã xin gia nhập giáo đoàn. Khi rời
Ca-tỳ-la-vệ với ý dịnh trở lại an cư tại thành Vương Xá thì Tăng đoàn
của Đức Phật được một vị trưởng giả là Cấp-đô-độc mời thỉnh về thành
Xá-vệ thuộc xứ Câu-tac-la để an cư tại tịnh xá Kỳ viên được xây dựng
trên ngôi vườn của thái tử Kỳ Đà mà ông đã mua được với cái giá “tấc
đất, tấc vàng”.
Lịch sử ghi nhận sau mỗi mùa an cư đều có các vị Tỳ-kheo chứng đắc
thánh quả. Qua các mùa an cư đó, quy tắc về việc tổ chức an cư đã được
ấn định thật tỉ mỉ. Do Tăng đoàn đã phát triển đến hàng ngàn người, Đức
Phật cho phép các Tỳ-kheo tụ tập thành từng nhóm với quy mô thích hợp.
Tự xây dựng lều làm nơi cư ngụ trong mùa mưa. Ở một khu đất rộng rãi,
các lều làm bằng vật liệu nhẹ có thể được dựng thành từng dãy và có thể
dựng thành gác cao hai hay ba tầng, có phòng rộng làm chỗ hội họp. Mỗi
trú xứ có một phạm vi được ấn định bởi các đường ranh gọi là cương giới.
trong phạm vi đó các Tỳ-kheo sinh hoạt tập thể suốt ba tháng theo các
quy định nghiêm ngặt. Một tập được công nhận là Tăng- già phải hội đủ
bốn vị Tỳ-kheo, trong đó phải có vị đã từng dự an cư trong các mùa mưa
trước làm thượng thủ. Tăng-già không hạn định số lượng tối đa. Khi Đức
Phật đã chấp nhận phát triển Ni giới, các quy định về an cư cho Tỳ-kheo
Ni cũng được quy định thật chặt chẽ. Với những quy định về an cư, từng
bước Tăng đoàn của Đức Phật trở thành một giáo đoàn có đời sống định cư,
thực sự thể hiện tinh thần nhập thế thông qua việc giáo hóa hàng bạch y
trong thời gian tu tập miên mật suốt ba tháng tại một nơi cố định.
Trải qua hơn 2.500 năm truyền bá và phát triển truyền thống an cư mùa
mưa của Tăng đoàn Phật giáo vẫn được duy trì. Tuổi đạo của một vị tu sĩ
được tính theo số mùa an cư mà vị ấy đã tham dự. Trong mùa an cư, chẳng
những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau giồi giới đức,
tăng trưởng Giới Tịnh Tuệ, xứng đáng làm ruộng phước cho hàng Phật tử
tại gia, mà chính những người Phật tử tại gia cũng có điều kiện thực
hiện vai trò “ cận sự”. Trong lúc chuẩn bị mùa an cư, Phật tử cúng dường
các phẩm vật cần thiết giúp chư Tăng Ni tu tập suốt ba tháng. Trong quá
trình an cư của chư Tăng Ni, Phật tử thường xuyên lui tới tham học,
giúp đở việc tổ chức sinh hoạt của chư Tăng Ni, nhờ đó tạo được công đức
thiết thực trong hành trình tu học. Nhiệt tâm của hàng Phật tử tại gia
góp thêm một động lực khiến chư Tăng Ni tinh cần trau giồi giới đức. Sự
tinh cần của chư Tăng Ni củng cố tín tâm của hàng Phật tử tại gia. Khi
hiểu rõ ý nghĩa của truyền thống an cư, một mùa an cư được tổ chức và
thực hiện chu đáo thực sự sẽ mang lại lợi lạc cho mọi người con Phật, dù
xuất gia hay tại gia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét