Một là chấm dứt tình trạng khủng hoảng của thiền Tông Hàn Quốc. Hai là lập nên tông phái Tào Khê với tư tưởng và giáo lý riêng, tạo nên sự phát triển thịnh vượng của Thiền tông Hàn Quốc thời kỳ sau đó…
1. Tri Nột vốn mang họ Trịnh, hiệu là Mục ngưu tử (kẻ chăn trâu). Ông sinh năm 1158 trong một gia đình giàu có và cũng là con một trong gia đình. Vào thời bấy giờ, xuất gia đi tu trở thành con đường tiến thân với nhiều người.
Các tăng đoàn cũng vì thế mà đặt ra hệ thống khảo thí riêng rất quy mô và nghiêm ngặt. Muốn con mình có địa vị cao trong xã hội sau này, cha mẹ của Tri Nột đã quyết định để đứa con trai duy nhất của mình xuất gia làm hòa thượng vào năm 1166. Năm đó Tri Nột mới lên 6 tuổi.
Cậu bé họ Trịnh lúc bấy giờ không biết và cũng chẳng hiểu nổi định hướng của cha mẹ dành cho mình là gì. Có điều, dù mới lên 8 tuổi, song Tri Nột lại thực sự thích thú với những lối sống và các sách kinh điển nhà Phật.
Thế rồi, chẳng biết từ lúc nào, cậu thiếu gia con nhà giàu họ Trịnh đã bị cuốn vào thế giới đầy màu sắc của Phật giáo. Khi còn là một sa di nhỏ tuổi sống trên chùa, Tri Nột ngày ngày tụng kinh, niệm Phật và tìm hiểu các kinh điển của Phật giáo Thiền tông.
Năm 1182, ở tuổi 25, như rất nhiều các hòa thượng khác, Tri Nột tham gia khoa thi do tăng đoàn tổ chức. Với trí thông minh sẵn có và công sức miệt mài tu học trong suốt nhiều năm, Tri Nột đã trúng tuyển một cách dễ dàng, chính thức trở thành một hòa thượng. Tám năm sau đó, Tri Nột lại miệt mài với những kinh điển Phật giáo khi ông được phân đến tu học ở chùa Thanh Nguyên ở Xương Bình.
Tri Nột |
Trong thời gian này, Tri Nột đã được đọc rất nhiều kinh sách cũng như trước tác quý đến từ Ấn Độ và Trung Quốc - những quốc gia Phật giáo mà đặc biệt là Thiền Tông phát triển rất thịnh vượng. Những sách mà Tri Nột đọc được gồm có “Lục Tổ đàn kinh”, “Đại Tạng Kinh”, “Tân Hoa Nghiêm Kinh luận”,… đều là những trước tác Thiền tông có ảnh hưởng rất lớn tới tư tưởng của Tri Nột sau này.
Người ta nói rằng, trong suốt cả cuộc đời mình, thiền sư Tri Nột không có một người thầy lớn nào và cũng không trải qua kinh nghiệm chứng ngộ như là kết quả theo lối gọi riêng là “tâm truyền tâm” giữa thầy và đệ tử vốn là truyền thống của Thiền tông. Tất cả kinh nghiệm chứng ngộ của Tri Nột thiền sư đều đến từ sự tham cứu từ những đoạn kinh.
Trong lần cuối cùng, sư chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất từ sự giải thích về mối quan hệ giữa Thiền và Giáo do Lý Thông Huyền - bậc thầy của Tông Hoa Nghiêm trình bày trong cuốn “Tân Hoa Nghiêm Kinh luận”. Nói theo cách nói hiện đại, thì có thể cho rằng, Tri Nột thiền sư là bậc thầy về khả năng tự học. Chỉ dựa vào những luận giải của mình về những cuốn sách kinh điển, ông tự hình thành cho mình một hệ thống lý luận riêng.
Lý luận thiền pháp của Tri Nột có điểm đột phá so với thời kỳ trước đó. Đó là, Tri Nột cho rằng tất cả các chúng sinh và Phật về bản chất không có gì khác biệt, đều có cái gọi là “chân tâm”.
Chỉ có điều, chúng sinh không ngộ ra cái tâm ấy, không thể trừ bỏ tất cả những phiền não quanh mình để đạt tới sự giác ngộ, còn Phật thì ngược lại, dứt bỏ được những ham muốn và phiền não. Vì vậy, con đường tu hành duy nhất không phải là cầu cạnh ở bên ngoài mà phải tu hành cho chính bản thân mình, dứt bỏ được những phiền não trần tục, thấy được chân tâm.
Một trong những lý luận quan trọng khác của thiền phái Tào Khê của Tri Nột chính là chủ trương dung hòa hai trường phái lớn của Thiền tông Trung Quốc, đó là tiệm ngộ và đốn ngộ. Bắc Tông thì chủ trương tiệm ngộ, cho rằng để đạt được giác ngộ, con người cần có thời gian tu hành, nhất là thời gian ngồi thiền và tham đọc các kinh điển.
Trong khi đó, chủ trương của Nam Tông thì ngược lại, cho rằng, sự giác ngộ không nhất thiết phải qua quá trình tu học tuần tự. Bất cứ ai, bất cứ lúc nào, miễn rằng thấy được Phật tính thì người đó có thể giác ngộ. Sự chia rẽ của Bắc và Nam Tông ngày càng lớn đặc biệt là trong cách giải thích của các đệ tử sau này.
Tuy nhiên, Tri Nột không theo trường phái đốn ngộ hay tiệm ngộ mà cho rằng một người tu hành muốn đạt đến sự giác ngộ thực sự buộc phải sử dụng cả phương pháp đốn ngộ và tiệm ngộ. Tri Nột cho rằng khi một người đốn ngộ, anh ta vẫn chưa thể dứt bỏ hoàn toàn những phiền não của thế tục.
Do vậy, sau khi đã đốn ngộ rồi thì buộc phải tu hành theo phương pháp tiệm ngộ để cắt đứt hoàn toàn những ham muốn và phiền não của thế tục mới có thể trở thành Phật được. Quan điểm của Tri Nột được gọi là “Đốn ngộ tiệm tu” (sau khi đốn ngộ thì tu tiệm ngộ).
Tri Nột |
2. Tám năm tu học khắp các chùa, Tri Nột cũng nhận thấy rằng hệ thống tăng đoàn ở Cao Li đang lâm vào tình trạng khủng hoảng một cách trầm trọng. Có nghĩa là về mặt hình tướng bên ngoài cũng như giáo lý bên trong, hệ thống tăng đoàn đang gặp phải những bế tắc không thể giải quyết được.
Sự tham nhũng đã lan tới tăng đoàn dù cửa Phật là nơi được coi là xa lánh thế tục, đoạn tuyệt với thất tình lục dục. Những cuộc thi tuyển để lựa chọn và công nhận tư cách các hòa thượng nay trở thành nơi người ta dùng để buôn bán trao đổi con đường tiến thân. Trước tình cảnh đó, dù không phải là một đại sư đức cao vọng trọng lúc bấy giờ nhưng Tri Nột vẫn quyết tâm thay đổi, khôi phục lại sự thịnh vượng và trong sạch của Thiền Tông ở Cao Li.
Tri Nột đã tìm mọi cách để tổ chức một cuộc vận động mới trong Thiền tông Cao Li nhằm lập nên một cộng đồng hành trì có giới luật, chuyên thanh tịnh tâm ý, tu hành ở sâu trong rừng núi. Sau một thời gian vận động, Tri Nột đã cùng với những người đồng chí hướng với mình thành lập Định Huệ xã ở Cư Tổ tự ở núi Công Sơn, đồng thời tuyên bố trước tác “Khuyên tu Định huệ kết xã văn”.
Sau đó, Tri Nột cho dời Định Huệ xã về chùa Tùng Quảng được xây dựng trên một ngọn núi cùng tên để cùng bạn bè tu hành đàm đạo, đồng thời bắt đầu thu nhận học trò và giảng giải kinh sách, thành lập một tông phái riêng.
Tới năm 1205, Tri Nột đổi tên chùa là “Tào Khê Sơn Tu Thiền xã”. Tào Khê là nơi mà Lục Tổ Huệ Năng - một thiền sư nổi tiếng của Trung Quốc - sống và truyền bá đạo thiền. Chính vì vậy, thiền phái của Tri Nột lập ra còn được gọi là Tào Khê tông.
Trong suốt chiều dài lịch sử kể từ khi thành lập, Thiền phái Tào Khê tạo nên sức ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với các tín đồ Phật giáo ở bán đảo Triều Tiên. Nhiều tông phái du nhập từ Trung Quốc như Tông Tào Động khi tới truyền bá giáo lý của mình đã phải mượn danh nghĩa của Tông Tào Khê mới có thể phát triển được.
Cho tới tận hiện tại, Tông Tào Khê do Tri Nột lập ra vẫn là một tông phái lớn nhất trong Thiền tông ở cả Hàn Quốc và cả Bắc Triều Tiên trong số 18 tông phái Phật giáo có mặt trên bán đảo này.
Những giáo lý thiền pháp của Tri Nột vẫn được gìn giữ và trở thành pháp môn chính của Thiền tông Hàn Quốc hiện tại. Có thể nói rằng, sự phát triển của thiền phái Tào Khê nói riêng và thiền tông nói chung có một phần đóng góp rất lớn của thiền sư Tri Nột.
Năm năm sau khi rời về chùa Tùng Quảng, năm 1210, thiền sư Tri Nột viên tịch, hưởng thọ 53 tuổi. Mặc dù cuộc đời ông không có bất cứ người thầy lớn nào chỉ dạy, tuy nhiên, Tri Nột lại là người thầy lớn của rất nhiều đại sự Phật giáo các thế hệ sau này - những người đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá và tiếp tục chú giải các tác phẩm của ông.
Bằng Hư/ phunutoday.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét