Trang

++ CHÙA A DI ĐÀ KÍNH CHÚC QUÍ VỊ MỘT NGÀY AN VUI. http://chuaadida.blogspot.com nay được đưa về trang nhà chuaadida.com. KÍNH MỜI QUÍ VỊ HOAN HỶ GHÉ THĂM TRANG NHÀ chuaadida.com và chia sẽ mọi người cùng biết. Cảm Ơn " ++
++ Thật hạnh phúc cho những ai biết cho mà không hề nhớ đến, biết nhận mà không hề quên đi. -- Đừng đau khổ với những gì mình không có, hãy biết vui với những gì mình đang có trong tay. -- Giá trị đích thực của sự cho đi không nằm ở món quà lớn hay nhỏ, mà nằm ở tầm lòng của người cho. -- Có 3 cách để tự làm giầu cho mình: mỉm cười, cho đi, và tha thứ. -- Tức giận là cơn lốc xóa đi mọi sự thông minh. -- Thành công lớn nhất là đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã. -- Phải ăn để sống chứ không phải sống để ăn. -- Một nụ cười có thể thay đổi một ngày. Một cái ôm có thể thay đổi một tuần. Một lời nói có thể thay đổi một cuộc sống. -- Đừng bao giờ cau mày hay nhăn mặt thậm chí khi bạn đang buồn. Chắc chắn sẽ có ai đó yêu bạn chỉ vì nụ cười của bạn thôi. Với thế giới, bạn chỉ là một cá nhân, nhưng với một ai đó, bạn là cả thế giới. -- Sự kiên nhẫn là sức mạnh vượt qua mọi khó khăn. -- Ðừng khóc vì mọi việc đã qua, hãy cười vì mọi việc đang chờ phía trước. -- Với lòng nhân ái đôi khi vực người từ hố thẳm, Với dạ hẹp hòi đôi lúc đẩy người tận vực sâu. -- Dù xa cách mấy trùng dương Ở đâu cũng có quê hương trong lòng. -- Tiền tài biết đủ thân không nhục, Danh lợi không tham đức mới cao. -- Tiền tài rồi cũng hết, Danh lợi rồi cũng tan, Duy chỉ có lòng người, Sống mãi với thời gian. -- Có không thương ghét chẳng bận lòng, Được mất hơn thua chẳng ngóng trông, Mở rộng tâm ra lòng thanh thảng, An nhiên tự tại dạ thong dong. -- Có thành công lớn nhỏ nào, không từ kiên nhẫn mà nên++

Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

LÂM TẾ NGỮ LỤC (3)



Nghĩa Huyền Thiền Sư
Thích Duy Lực dịch từ Hán Văn sang Việt Văn

Từ Ân Thiền Đường Hoa Kỳ Xuất Bản Năm 1993 Phật lịch 2536
---O0O---
Sư cùng Phổ Hóa đi dự trai tăng, Sư hỏi Phổ Hóa:
"Sợi lông nuốt cả biển lớn.
Hạt cải dung chứa tu di.

Ấy là thần thông diệu dụng hay là pháp giống như thế?"
Phổ Hóa đạp đổ bàn ăn cơm, Sư nói: "Thô lỗ quá vậy!"
Phổ Hóa nói: "Đây là chỗ gì mà nói thô nói tế".

*****

Hôm sau cũng cùng đi dự trai tăng, sư lại hỏi: "Sự cúng dường hôm nay đâu bằng hôm qua?"
Phổ Hóa cũng đạp đổ bàn ăn nữa, Sư nói: "Được thì được, sao thô lỗ quá vậy !"
Phổ Hóa hét rằng: "Thằng mù, Phật pháp nói gì thô với tế".
Sư le lưỡi.
(LỜI BÌNH PHẨM: Đại Huệ Tông Cảo Thiền-sư nói: "Công án này, Lâm Tế hai lần bị bịt miệng, không biết còn có chỗ thương lượng hay không ? nếu có thì làm sao thương lượng?").
Một hôm sư cùng với Hà Dương và trưởng lão Mộc Thấp ngồi trong tăng đường đàm luận nói tới Phổ Hóa hàng ngày ở ngoài đường giả điên giả khùng, không biết ông ấy là phàm hay là thánh. Lời nói chưa dứt thì Phổ Hóa vào, Sư bèn hỏi (Phổ Hóa): "Ngươi là phàm hay thánh?".
Phổ Hóa nói: "Ngươi cho ta là phàm hay là thánh ?"
Sư liền hét lên!
Phổ Hóa dùng tay chỉ rằng: "Hà Dương là con dao mới, Mộc Thấp là lão bà Thiền, chú tiểu Lâm Tế này lại đủ một con mắt".
Sư nói: "Kẻ tặc!".
Phổ Hóa nói: "Tặc! Tặc!". Bèn bỏ đi.
*****
Một hôm Phổ Hóa đương ăn rau sống trước tăng đường, sư thấy vậy nói: "Giống như một con lừa". Phổ Hóa bèn làm ra tiếng lừa kêu, sư nói với vị tăng trực rằng: "Chăm sóc cỏ nuôi lừa cho kỹ nhé."
Phổ Hóa nói:
"Thiểu vọng nhân bất thức
Kim Lan hữu tái lai
Lâm Tế nhứt chiếc nhãn
Đáo xứ vị nhân khai"

Dịch nghĩa: (
Danh vọng ít người biết
Kỳ Lân lại đến nữa
Lâm Tế một con mắt
Chiếu soi khắp mọi nơi).

*****
Một hôm Triệu Châu đến viện Lâm Tế, lúc đang rửa chân ở nhà sau, Sư thấy bèn hỏi: "Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Trúc đến ?"
Triệu Châu đáp: "Gặp nhằm sơn tăng rửa chân".
Sư bước đến gần và làm thế lắng tai nghe, Châu lại nói: "Hội thì hội liền chứ cắn đắn làm gì ?"
Sư liền trở về phương trượng.
Triệu Châu nói: "Ba mươi năm hành cước, hôm nay chú giải sai lầm cho người ta".
*****
Sư hỏi Hạnh Sơn: "Thế nào là Lộ Địa Bạch Ngưu ?"
Sơn nói: "Hồng ! Hồng !"
Sư nói: "Câm sao ?"
Hạnh Sơn nói: "Trưởng lão cho là thế nào ?"
Sư nói: "Súc sinh này !"
*****
Ma Cốc hỏi: "Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát có nghìn tay nghìn mắt, thử hỏi mắt nào là mắt chính ?"
Sư nắm chặt Ma Cốc nói: "Đức Đại Bi nghìn tay nghìn mắt, mắt nào là mắt chính. Nói mau ! nói mau !"
Ma Cốc kéo sư khỏi tòa, tự ngồi lên tòa.
Sư vấn tín. Cốc do dự, sư bèn hét rồi kéo Ma Cốc xuống tòa. Sư ngồi trở lại.
Ma Cốc bèn đi ra, nhưng lại hỏi: "Quán Âm mười hai mặt, mặt nào là mặt chính ?"
Sư xuống tòa nắm chặt Ma Cốc nói: "Quán Âm mười hai mặt đi đâu rồi ? nói mau ! nói mau !"
Ma Cốc xoay người lại muốn ngồi, sư bèn đánh, Cốc nắm cây gậy, hai người cùng giành nhau đi trở về phương trượng.
*****
Sư khai thị rằng: "Sơn tăng chẳng có một pháp cho người, chỉ là trị bệnh mở trói. Các ngươi cứ lấy lời nói trong miệng của sơn tăng chẳng bằng thôi nghỉ, vô sự còn tốt hơn!. Sư lại nói, Một niệm duyên khởi vô sanh, siêu việt quyền học tam thừa".
*****
Sư dạy chúng: "Thời nay người học Phật pháp cần phải có kiến giải chân chính. Nếu có được kiến giải chân chính thì chẳng nhiễm sanh tử, đi ở tự do, chẳng cần cầu thù thắng, mà thù thắng tự đến.
Này chư đạo lưu, các bậc tiên đức từ xưa đều có đường lối hướng dẫn mọi người ; riêng lối chỉ dẫn người của sơn tăng đây, chỉ cốt giúp các ngươi không bị người ta mê hoặc, muốn dùng, liền dùng chớ đừng chần chờ thắc mắc. Hiện nay kẻ học chẳng được khai ngộ là bệnh ở chỗ nào ? Chính là bệnh ở chỗ chẳng tự tin. Nếu chẳng có tự tin, tức thì các ông tự rộn ràng lan man theo cảnh, bị muôn cảnh lôi cuốn chẳng được tự do. Nếu các ngươi thôi nghỉ cái tâm niệm niệm tìm cầu thì với chư Tổ chư Phật chẳng khác. Các ông muốn nhận biết chư Tổ, chư Phật chăng ? Chính là ngươi đang nghe pháp trước mắt đây. Học nhân thiếu tự tin bèn hướng ngoại tìm cầu. Dẫu cho tìm được cũng đều chỉ là văn tự danh tướng trọn chẳng được ý của Tổ sống. Nếu thời nay không gặp, thì ngàn đời vạn kiếp luân hồi trong tam giới, trôi theo cảnh thiện ác, rồi phải vào thai trâu bụng lừa.
Các đạo giả, theo chỗ thấy của sơn tăng cùng với Thích Ca chẳng khác, mỗi ngày mỗi mỗi thứ dụng đều đầy đủ chẳng thiếu cái gì. Sáu thứ thần quang chưa từng gián đoạn, nếu thấy được như thế tức là người vô sự trên đời.
Chư Đại-đức, tam giới không yên, giống như nhà lửa. Đây không phải là chỗ ở lâu của các ngươi. Con quỉ vô thường giết người trong khoảnh khắc, chẳng kể già trẻ, sang hèn. Các ông muốn cùng Tổ và Phật chẳng khác, chỉ cần không hướng ngoại tìm cầu. Trên một niệm thanh tịnh sáng suốt chính là Pháp thân Phật trong nhà ngươi. Trên một niệm vô phân biệt sáng suốt chính là Báo thân Phật trong nhà ngươi. Trên một niệm vô sai biệt sáng suốt chính là Hóa thân Phật trong nhà ngươi. Ba thứ thân này chính là ngươi đang nghe pháp trước mắt đây, chỉ vì chẳng hướng ngoại tìm cầu thì có công dụng này.
Theo các nhà kinh luận lấy ba thứ thân này làm chỗ lý cùng tột. Theo chỗ thấy của sơn Tăng thì chẳng phải vậy. Ba thứ thân này chỉ là danh tự, cũng là ba thứ y. Người xưa nói: "Thân y nghĩa lập, độ y thể luận" (Thân tựa nghĩa mà lập, quốc độ tựa thể mà luận). Vậy Pháp tánh thân và Pháp tánh độ rõ ràng là quang ảnh (những phản ảnh của ánh sáng).
Chư Đại-đức, các ông phải nhận biết người làm quang ảnh này, là cội nguồn của chư Phật, cũng là quê nhà của các ông. Sắc thân tứ đại của các ông không hiểu thuyết pháp, nghe pháp; tì, vị, gan, mật của các ông cũng không hiểu thuyết pháp, nghe pháp; hư không cũng không hiểu thuyết pháp, nghe pháp. Vậy thì cái gì hiểu thuyết pháp, nghe pháp ? Ấy là cái chẳng hình dáng mà sáng sủa rõ ràng trước mắt của các ông đó! Nếu thấy được như thế, thì cùng với Tổ và Phật chẳng khác. Chỉ có điều, trong mọi thời đừng để gián đoạn (khắp thời gian) chạm mắt đến đâu là thấy nó ở đó (khắp không gian). Chỉ vì tình sanh trí cách, tưởng biến thể khác (nghĩa là tình thức sanh khởi thì trí tuệ bị ngăn cách và tư tưởng biến đổi thì vật thể cũng trôi theo), nên bị lăn lóc luân hồi trong tam giới chịu đủ thứ khổ não. Nếu theo chỗ thấy của sơn tăng thì không có chỗ nào là chẳng phải giải thoát.
Chư đạo hữu ! Các ông phải biết, Tâm pháp vô hình thông suốt mười phương, ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, ở mũi gọi là ngửi, ở miệng gọi là nói bàn, ở tay gọi là nắm bắt, ở chân gọi là chạy nhảy, vốn là một cái tinh minh, phân thành sáu hòa hợp. Một tâm đã không thì mọi nơi đều giải thoát. Sơn tăng nói như thế, ý ở chỗ nào ? Chỉ vì tất cả tâm tìm cầu của các ông chẳng thể thôi nghỉ, mới lọt vào cái bẫy cơ cảnh (cảnh cơ xảo) của người xưa.
Chư đạo hữu ! Nếu các ông nhận được chỗ thấy của sơn tăng, các ông có thể ngồi ngay đó cắt đứt những đầu mối Báo thân Phật, Hóa thân Phật. Chư Bồ-tát Thập Địa, cho đến Đẳng-giác, Diệu-giác là những kẻ gông cùm ; La Hán, Bích Chi Phật là những thứ ô uế nhà cầu ; Bồ Đề, Niết Bàn như cọc cột lừa. Tại sao như thế ? Chỉ vì các ông không thông đạt được cái không của ba A-tăng-kỳ kiếp, nên mới có chướng ngại này. Nếu là đạo nhân chân chính, trọn chẳng như thế, chỉ tùy duyên tiêu nghiệp cũ, cứ mặc tình mặc áo quần, muốn đi thì đi, muốn ngồi thì ngồi, tâm không một niệm mong cầu Phật quả. Tại sao như thế ? Người xưa nói: "Nếu muốn tạo nghiệp cầu Phật, thì Phật là cái triệu chứng lớn của sinh tử!".
Chư Đại-đức ! Thời giờ quí báu, cứ lê lết nơi này nơi nọ mà học thiền học đạo, nhận danh nhận cú, cầu Phật cầu Tổ, cầu thiện tri thức. Chớ nên sai lầm như thế ! Các ông chỉ có một cha mẹ, còn cầu cái gì nữa ?. Các ông hãy tự phản chiếu xem ! người xưa nói: "Diễn Nhã Đạt Đa quên mất đầu, tâm cầu dứt sạch liền vô sự". (*)
Chư Đại-đức ! Chỉ cần giữ tâm bình thường, chớ làm dáng làm điệu. Có một bọn binh đầu trọc chẳng biết tốt biết xấu, thấy thần thấy quỷ, chỉ Đông chỉ Tây, cầu mưa cầu tạnh. Bọn này, chắc chắn có ngày đến trước mặt Diêm Vương nuốt cục sắt nóng để đền nợ. Những thiện nam tín nữ bị bọn yêu tinh mê hoặc tác yêu tác quái. thật là lũ mù quái gở ! có ngày chúng sẽ bị đòi nợ tiền cơm tiền gạo. Các ngươi cần phải tìm lấy kiến giải chân chính tung hoành trong thiên hạ, khỏi bị bọn yêu tinh này mê hoặc. Các người chớ nên tạo tác, chỉ giữ bình thường là tốt. Các ngươi vừa khởi tâm tính toán đã là sai lầm rồi vậy! Chớ nên cầu Phật ! Phật chỉ là danh tự. Các ngươi biết được kẻ tìm cầu chăng ? Tam thế thập phương Phật ra đời cũng chỉ vì cầu Pháp. Nếu được pháp thì mới xong, khỏi bị luân hồi trong ngũ đạo (Vì A-tu-la có 4 loài: Trời, người, súc sinh, quỷ. Nên trừ A-tu-la ra chỉ có ngũ đạo)".
Thế nào là Pháp?
Pháp tức là tâm pháp, tâm pháp không hình, thông suốt mười phương, hiện dụng trước mắt. Vì con người chẳng thể tin được, bèn nhận danh, nhận cú, hướng trong danh tự, so đo tìm nghĩa; với Phật Pháp xa cách nhau như trời với đất.
CƯỚC CHÚ: (*) Diễn Nhã Đạt Đa, sáng soi gương thấy cái mặt mình trong gương nhưng lại không nhận ra rằng cái bản mặt đó chính là mình, rồi tưởng mình mất đầu chạy khắp nơi tìm kiếm, nhưng khi biết đầu mình chưa hề mất, thành ra người vô sự.
*****
Các ông ! Sơn tăng thuyết pháp là thuyết pháp gì?. Là thuyết pháp tâm địa. Ngộ pháp tâm địa thì hay vào tịnh vào uế, vào phàm vào thánh, vào chân vào tục, nhưng chính các ông cũng không phải chơn tục phàm thánh mà có thể đặt tên cho tất cả chơn tục phàm thánh, nhưng tất cả chơn tục phàm thánh tự đặt tên chẳng được.
Chư Đạo hữu ! các ông nắm được liền dùng, chớ nên sắp đặt mới khế hợp huyền chỉ. Sơn tăng thuyết pháp khác với người thiên hạ. Ví như có Văn Thù, Phổ Hiền hiện thân hỏi pháp, mới vừa nói "Bẩm Hòa-thượng" thì ta đã biết rõ rồi. Tại sao như thế ? Chỉ vì chỗ thấy của ta khác hẳn, bên ngoài chẳng lấy phàm thánh, bên trong chẳng trụ căn bổn, thấy suốt bổn pháp, chẳng chỗ nghi ngờ.
Các Đạo hữu ! Phật pháp chẳng có chỗ dụng công, chỉ là bình thường vô sự, mặc áo ăn cơm, đi tiêu đi tiểu, mệt thì đi ngủ, người ngu cười ta, người trí mới biết ta. Người xưa nói: "Hướng bên ngoài làm công phu đều là kẻ ngu si". Các ngươi phải tùy thời làm chủ, chỗ đứng đều là chân, tất cả cảnh duyên lôi kéo chẳng được. Dầu cho có tập khí từ xưa, có tạo nghiệp địa ngục vô gián đều là biển giải thoát. Ngày nay kẻ học thiền trọn không biết pháp, như con dê gặp gì cũng ăn, không phân biệt chủ khách, chánh tà. Bọn này từ tà tâm nhập đạo chẳng được gọi là người chơn xuất gia, chính là người chơn tục gia. Người xuất gia phải phân biệt được kiến giải chơn chánh bình thường, phân biệt được Phật, ma, chơn, ngụy, phàm, thánh. Nếu được như thế, gọi là chơn xuất gia. Nếu ma, Phật chẳng phân biệt được tức là "xuất gia" này, "vào gia" kia, gọi là chúng sanh tạo nghiệp, chưa được gọi là chơn xuất gia. Như hiện nay có cái Phật, ma đồng thể. Nếu đạo hữu là người mắt sáng thì ma, Phật đều đánh, nếu các ngươi yêu thánh ghét phàm thì phải chìm nổi trong biển sanh tử, chẳng có ngày xong.
Lúc ấy, có một vị tăng hỏi: "Thế nào là Phật là ma ? Xin ngài khai thị"
Sư đáp: "Ngươi vừa khởi một niệm tâm nghi ấy là ma Phật. Nếu ngươi thông đạt vạn pháp vô sinh, tâm như huyễn hóa, không còn một trần, một pháp, nơi nơi thanh tịnh, tức là ma Phật. Phật với chúng sanh là hai cảnh nhiễm tịnh. theo chổ thấy của sơn tăng, không Phật không chúng sanh, không xưa không nay, kẻ đắc bèn đắc chẳng kể thời tiết, cũng không tu không chứng, không được không mất, trong tất cả thời lại không có pháp riêng khác. Dầu rằng có một pháp hơn cả pháp này, thì ta nói như mộng như huyễn. Sơn tăng sở thuyết chỉ là việc trước mắt, là kẻ hiện đang nghe pháp rõ ràng sáng tỏ đó. Người này (tự tánh) cùng khắp mười phương tam giới tự do tự tại, không nơi nào, lúc nào bị chướng ngại, vào tất cả cảnh sai biệt cũng chẳng thể bị dính mắc, trong một sát na thấu khắp pháp giới, gặp Phật thuyết Phật, gặp Tổ thuyết Tổ, gặp La Hán thuyết La Hán, gặp ngạ quỷ thuyết ngạ quỷ, đi tất cả chỗ, dạo các cõi nước, giáo hóa chúng sanh mà chưa từng lìa một niệm, tùy nơi thanh tịnh, ánh sáng thấu suốt mười phương, vạn pháp nhất như.
Các ngươi ! Kẻ đại trượng phu, hôm nay mới biết bổn lai vô sự. Chỉ vì các ngươi chẳng tin tự tâm, niệm niệm tìm cầu, bỏ đầu tìm đầu, tự không thể thôi, như các vị Bồ Tát viên đốn vào trong pháp giới hiện thân hướng trong tịnh độ, chán phàm ưa thánh, bọn người như thế chưa quên việc lấy bỏ, tâm nhiễm-tịnh vẫn còn. Như kiến giải của Thiền tông thì chẳng phải vậy, chỉ thẳng hiện tại lại chẳng kể thời tiết. Chổ sơn tăng thuyết đều là thuốc với bệnh đối trị lẫn nhau, vốn chẳng có pháp thật. Nếu thấy được như vậy, mới là kẻ chân xuất gia, mỗi ngày tiêu được muôn lượng vàng ròng. Các ông chớ nên bị tông Sư các nơi ấn chứng bậy bạ cho là ta hiểu thiền hiểu đạo, biện luận thao thao như suối chảy, đều là tạo nghiệp địa ngục. Nếu là người học đạo chân chính, chẳng thấy lỗi của thế gian, chỉ cần cầu kiến giải chân chính, nếu thấu đạt chân tâm, ngộ tự tánh tròn đầy sáng tỏ, mới gọi là xong việc
.

Hỏi: "Thế nào là kiến giải chân chính ? Xin khai thị lại ?"
Sư đáp: "Ngươi chỉ cần đối với tất cả, vào phàm vào thánh, vào nhiễm vào tịnh, vào các quốc độ chư Phật, vào lầu các Di Lặc, vào thế giới Tỳ Lô Giá Na, chỗ chỗ đều hiện quốc độ thành, trụ, hoại, không. Phật ra đời chuyển đại pháp luân vào vô dư niết bàn, chẳng thấy có tướng mạo khứ lai, cầu việc sanh tử trọn chẳng thể đắc, liền vào pháp giới vô sanh, dạo qua các quốc độ nơi nơi, vào thế giới Hoa Tạng, thấy hết các pháp toàn chân đều là thực tướng. Chỉ có Đạo nhân vô y (tự tánh) đang nghe pháp, là mẹ của chư Phật, bởi vì chư Phật đều từ vô y sanh. Nếu ngộ được hai chữ vô y (không chỗ nương), Phật cũng vô đắc. Nếu thấy được như thế, tức là kiến giải chân chính. Học nhân không hiểu, chấp danh cú, bị danh phàm-thánh chướng ngại. Do đó chướng ngại đạo nhãn của họ, chẳng được sáng tỏ. Thực ra mười hai phần giáo nói ra đều chỉ là hiển bày lẽ này, kẻ học không lãnh hội được bèn hướng vào danh cú mà vọng sanh kiến giải, ấy đều là có y có dựa, lọt vào nhân quả chưa ra khỏi sanh tử luân hồi trong tam giới.
Các ngươi, nếu muốn đi ở tự do trong sanh tử, thì phải nhận thức người đang nghe pháp đây, vốn là vô hình, vô tướng, vô căn, vô bản, không trụ xứ, mà hoạt bát rõ ràng, ứng dụng muôn thứ, chỗ dùng chỉ là không chỗ (vô sở trụ).
Nếu kẻ muốn tìm thì lại càng xa, muốn cầu thì lại càng sai; nên có hiệu là bí mật. Các ông chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn (ý nói thân ngũ uẩn), trong khoảng sát na sẽ trở về vô thường. Các ông đến trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát ? Tìm lấy một chén cơm mà ăn, một manh áo mà mặc. Chớ nên uổng qua thời giờ, đuổi theo sự vui thích mà uổng phí một đời, ngày giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, nếu thô thì bị bốn thứ: đất, nước, gió, lửa (tứ đại) bức bách, nếu tế thì bị sanh, trụ, dị, diệt (tứ tướng) bức bách ; đến khi nào mới xong ?".
Các ông ! Thời nay cần phải nhận biết bốn thứ cảnh vô tướng, mới khỏi bị cảnh lôi kéo.
Hỏi: "Thế nào là bốn thứ cảnh vô tướng ?"
Sư đáp:
"Các ngươi một niệm tâm ái bị nước nhận chìm.
Các ngươi một niệm tâm sân bị lửa đốt cháy.
Các ngươi một niệm tâm nghi bị đất làm ngại.
Các ngươi một niệm tâm hỷ bị gió thổi bay.
Nếu thấu hiểu được như thế thì chẳng bị cảnh chuyển. Nơi nơi dùng được cảnh, nổi bên Đông, lặn đằng Tây, nổi bên Nam lặn đàng Bắc, nổi ở giữa lặn ở biên, nổi ở biên, lặn ở giữa, đi trên nước như đi trên đất, đi trên đất như đi trên nước. Tại sao được như vậy ? Vì đã thấu đạt tứ đại như mộng huyễn.
Các ngươi hiện nay đang nghe pháp đó, chẳng phải tứ đại của các ngươi, chính cái đó hay dùng được tứ đại, mà không bị tứ đại dùng. Nếu thấy được như vậy là đi ở tự do. Chỗ thấy của sơn tăng là cái pháp không thể chê. Nếu ngươi ghét phàm yêu thánh thì bị cảnh thánh phàm buộc.
Có một số học nhân lên Ngũ Đài Sơn cầu gặp Văn Thù đã là sai lầm rồi vậy. Trên Ngũ Đài Sơn không có Văn Thù.
Các ngươi muốn biết Văn Thù chăng ? Chỉ là chỗ dùng trước mắt của các ngươi, xưa nay chẳng khác, mọi nơi chẳng ngại, cái ấy là Văn Thù sống. Các ngươi một niệm tâm sáng suốt không sai biệt, nơi nơi thảy là Phổ Hiền. Các ngươi một niệm tâm tự tại, tùy chỗ giải thoát ấy là Quán Thế Âm. Ba pháp thay phiên nhau làm chủ-bạn, hiển thì nhứt thời hiển, ẩn thì nhứt thời ẩn, một tức ba, ba tức một. Hiểu được như thế mới có thể xem Kinh Giáo. Đại thiện tri thức mới dám báng Phật báng Tổ, mới dám thị phi thiên hạ, bài xích Tam Tạng Giáo-điển, chưởi mắng nơi nơi như mắng tiểu nhi. Hướng trong cảnh nghịch thuận mà tìm người nên nói ta ở trong mười hai năm, (thập nhị nhân duyên) tìm một nghiệp tánh nhỏ như hạt cải cũng chẳng thể được. Nếu như kẻ bị xưng là "Thiền sư con dao mới" thì phải sợ bị đuổi ra khỏi thiền viện hay bị phạt không cho ăn cơm, suốt ngày không yên ổn. Các bậc tiền bối xưa đến nơi nào cũng bị người không tin đuổi ra, vậy mới biết ấy là quý. Nếu đến chỗ nào đều có người tin thì kham làm cái gì? Nên nói sư tử rống lên một tiếng thì con cho sói bể đầu bể óc".
*****
Các ông ! Các nơi đều nói có đạo để tu, có pháp để chứng, ngươi nói thử xem chứng pháp nào ? tu đạo nào ?
Nay chỗ dụng của ngươi có thiếu vật gì, tu bổ chỗ nào, kẻ tiểu sư hậu học không hội được, lại đi tin bọn dã hồ tinh, bọn chúng thuyết những việc trói buộc người khác, họ nói rằng: "Lý hạnh tương ưng, hộ tiếc tam nghiệp. (Nói và làm phù hợp với nhau thì giữ được thân, khẩu, ý chẳng tạo nghiệp). Mới được thành Phật". Kẻ thuyết như thế nhiều như mưa phùn mùa xuân. Người xưa có nói:
"Lộ phùng đạt đạo nhân,
Đệ nhất mạc hướng đạo".

Dịch nghĩa:
Giữa đường gặp người thông đạt đạo
Tốt nhất chớ nên hướng vào đạo.

Cho nên nói:
"Nhược nhân tu đạo, đạo bất hành
Vạn ban tà cảnh, cạnh đầu sanh.
Trí kiếm xuất lai vô nhất vật
Minh đầu vị hiển ấm đầu minh".

Dịch nghĩa:
Nếu người tu đạo, đạo chẳng hành
Muôn thứ cảnh tà giành nhau sanh
Kiếm trí huệ ra, không một vật
Bên sáng chưa hiện, bên tối sáng.

Cho nên người xưa nói: "Tâm bình thường là đạo".
Các Đại đức, còn muốn tìm vật gì, kẻ đạo nhân vô y trước mắt hiện đang nghe pháp đó phân minh rõ ràng chưa từng thiếu sót cái gì. Nếu ngươi muốn so bằng Tổ bằng Phật, chỉ cần thấy như vậy, chẳng còn nghi ngờ, tâm tâm chẳng khác của ngươi gọi là Tổ sống. Tâm nếu có khác thì tánh tướng khác, vì tâm chẳng khác nên tánh tướng chẳng khác.
Hỏi: "Thế nào là chỗ tâm tâm chẳng khác ?"
Sư đáp: "Ngươi muốn hỏi đã là khác rồi vậy, tánh tướng đã phân biệt khác nhau. Các ông chớ hiểu lầm, các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng tự tánh cũng chẳng sanh tánh, chỉ có không danh mà danh-tự cũng không. Ngươi cứ nhận lầm cho rằng cái tên gọi là thật có, ấy là sai lầm lớn rồi đó. Giả sử là có, đều chỉ là cái cảnh y biến có, như: Bồ Đề y, Niết Bàn y, giải thoát y, tam thân y, cảnh trí y, Bồ Tát y, Phật y... Ngươi cứ hướng vào trong quốc độ y biến, tìm vật gì ? Cho đến tam thừa mười hai phần giáo đều chỉ là giấy lau chùi những bất tịnh. Phật là huyễn hóa thân, Tổ là tỳ kheo già, ngươi còn là kẻ có mẹ sanh mình chăng ? Ngươi nếu cầu Phật thì bị ma Phật nhiếp. Ngươi nếu cầu Tổ thì bị ma Tổ buộc. Ngươi nếu có cầu đều là khổ não, chẳng bằng vô sự thì tốt.
Có bọn tỳ kheo trọc đầu nói với người học đạo rằng: "Phật là cứu cánh, trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp tu hành viên mãn mới thành đạo quả". Các ông nếu nói Phật là cứu cánh vì sao mà tám mươi năm sau, lại đến rừng Sa-la song-thọ nằm ngang mà chết đi ? Nay Phật ở chỗ nào ? thế thì biết rõ sanh tử của Phật so với sanh tử của ta cũng chẳng khác. Ngươi nói nếu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi thứ vẻ đẹp là Phật, vậy Chuyển Luân Thánh Vương cũng phải là Phật, vì Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mươi hai tướng tốt vậy, nên biết tất cả chỉ là huyễn hóa.
Người xưa có bài kệ rằng:
"Đức Phật hiện thân tướng
Vì thuận tình thế gian
E người sanh đoạn kiến
Phương tiện lập giả danh
Giả nói có ba hai
Tám mươi cũng vẫn không
Có thân phi giác thể
Không tướng là hình chân".
(Như Lai hiện thân tướng
Vi thuận thế gian tình
Khủng nhân sanh đoạn kiến
Quyền tả lập hư danh
Giả ngôn tam thập nhị
Bát thập diệc không thanh
Hữu thân phi giác thể
Vô tướng nãi chơn hình)

Ngươi nói Phật có lục thông là bất khả tư nghì. Vậy tất cả chư thiên, thần tiên, A-tu-la, đại lực quỷ cũng có thần thông phải là Phật chăng ?
Các ông chớ sai lầm, cũng như A tu la cùng Đế Thích đánh nhau, bị thua rồi lãnh 84 ngàn quyến thuộc dấu trong lỗ củ sen, thế là Thánh chăng ? Những việc kể của sơn tăng đều là nghiệp thông, y thông. Cái lục thông của Phật thì chẳng phải vậy. Nghĩa là: vào sắc giới chẳng bị sắc mê hoặc, vào thanh giới chẳng bị thanh mê hoặc, vào hương giới chẳng bị hương mê hoặc, vào vị giới chẳng bị vị mê hoặc, vào xúc giới chẳng bị xúc chạm mê hoặc, vào pháp giới chẳng bị pháp mê hoặc. Cho nên nói thấu đạt sáu thứ : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều là tướng KHÔNG, chẳng bị trói buộc, ấy là đạo nhân vô y. Dù mang thân xác ngũ uẩn cũng là địa hành thần thông.

Các ông phải biết: Chơn Phật vô hình, chơn pháp vô tướng. Các ông cứ muốn ở trên đầu huyễn hóa, làm dáng làm điệu, đủ thứ mong cầu, dẫu cho cầu được cũng là dã-hồ-tinh, chẳng phải là chân Phật, đều thuộc kiến giải ngoại đạo. Nếu là người chân học đạo thì chẳng lấy Phật, lấy Bồ Tát, La Hán, chẳng lấy thù thắng của tam giới, thản nhiên độc thoát, chẳng bị tâm cảnh giựt trói, dù trời đất đảo lộn ta cũng không nghi, mười phương chư Phật hiện tiền cũng không có một niệm tâm vui mừng, địa ngục tam đồ bổn hiện cũng không nổi một niệm sợ hãi ; tại sao như thế ? Tại ta thấy chư Phật tướng KHÔNG, biến hóa thì có, chẳng biến hóa thì không.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét