Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi. Rồi Bà la môn Bhikkhaka đi đến, sau khi chào đón, hỏi thăm, ngồi xuống một bên bạch Thế Tôn:
Thưa Tôn giả Gotama, con là người khất thực và Tôn giả cũng là người khất thực. Vậy có sự sai khác gì giữa chúng ta?
Thế Tôn đáp: “Không phải ai ăn xin; cũng gọi là khất sĩ; nếu chấp trì
độc pháp; không còn gọi Tỷ kheo; ai sống ở đời này; từ bỏ các phước báo;
đoạn trừ mọi ác pháp; hành trì theo phạm hạnh; sống đời sống chánh trí;
vị ấy xứng Tỷ kheo”.
Khi được nghe nói như vậy, Bà la môn Bhikkhaka bạch Thế Tôn:
Thật vi diệu thay Tôn giả Gotama! Mong Tôn giả nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ I, chương 7, phẩm Cư sĩ, phần Bhikkhaka, VNCPHVN ấn hành, 1993, tr.400)
LỜI BÀN:
Khất sĩ là một trong những ý nghĩa cao quý của Tỷ kheo. Về phương
diện nuôi sống thân mạng, Tỷ kheo chọn pháp khất thực, làm một kẻ ăn xin
đích thực. Trong vô vàn kẻ ăn xin lang thang từ nơi này đến nơi khác
tìm cái ăn để sống vất vưởng qua ngày thì những người ăn xin, Tỷ kheo
trì bình khất thực với mục đích hoàn toàn khác, vì tự lợi và lợi tha. Tự
lợi là dùng khất thực làm phương tiện nuôi dưỡng sắc thân để tu tập.
Lợi tha là dùng phương tiện khất thực để giáo hóa và tạo phước điền cho
chúng sanh. Vì thế, khất thực là truyền thống của mười phương ba đời chư
Phật.
Khất sĩ là người ăn xin nhưng không phải kẻ xin ăn nào cũng là khất
sĩ, Thế Tôn đã khẳng định như vậy. Nếu thực hành hạnh khất thực để chỉ
đơn thuần nuôi thân mà không đoạn trừ ác pháp, không thực hành phạm
hạnh, không sống đời chánh trí thì không phải Tỷ kheo. Ngày nay, đa phần
các Tỷ kheo không trì bình khất thực nhưng vẫn nhận sự dâng cúng của
Phật tử và sự ủng hộ của các nhà hảo tâm để sống, tu tập và thực thi
Phật sự. Dù không trực tiếp thực hành theo phương thức “một bát, cơm
ngàn nhà” nhưng bản chất của khất sĩ vẫn không thay đổi.
Quán chiếu để thấy tự thân là một khất sĩ, một người ăn xin đích
thực là nhiệm vụ của mỗi Tỷ kheo. Nguyện sống đời khất sĩ không cầu
phước báo nhân thiên, chỉ vì mục đích duy nhất là thoát ly sanh tử và
nguyện cứu độ chúng sanh. Trong tinh thần phương tiện, một khất sĩ có
thể và có quyền sở hữu nhưng phải thường quán sát với tuệ giác không có
bất cứ cái gì “là tôi, là của tôi và tự ngã của tôi”.
Tuệ tri thường trực về ý nghĩa và bản chất của đời sống khất sĩ là
động lực quan trọng để làm suy giảm, dẫn đến triệt tiêu tự ngã và tham
ái. Đó cũng là lý do hàng Phật tử khi tu tập bố thí, gieo trồng ruộng
phước nơi chúng Tăng không đơn thuần bố thí mà mang ý nghĩa cao cả là
cung kính cúng dường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét